K. Marx
Lao động làm thuê và Tư bản

QUAN HỆ GIỮA LAO ĐỘNG LÀM THUÊ VÀ TƯ BẢN

Cái ǵ diễn ra trong sự trao đổi giữa nhà tư bản và công nhân làm thuê?

Công nhân đổi lao động của ḿnh lấy tư liệu sinh hoạt, nhà tư bản đổi tư liệu sinh hoạt của ḿnh lấy lao động, lấy hoạt động sản xuất của công nhân; lấy cái sức sáng tạo mà nhờ đó, người lao động không chỉ bù lại cái đă tiêu dùng, mà c̣n đem lại cho lao động tích lũy một giá trị lớn hơn giá trị của nó trước kia. Công nhân nhận một phần tư liệu sinh hoạt của nhà tư bản. Anh ta lấy những tư liệu sinh hoạt ấy làm ǵ? Để tiêu dùng trực tiếp. Nhưng ngay khi tôi dùng những tư liệu sinh hoạt ấy, th́ đối với tôi, chúng đă hoàn toàn biến mất; trừ khi tôi dùng khoảng thời gian có được nhờ sử dụng chúng, để tạo ra những tư liệu sinh hoạt mới, để tạo ra những giá trị mới bằng lao động của ḿnh; nhằm thay cho những giá trị đă được sử dụng, và đă mất đi. Nhưng chính cái sức tái sản xuất cao quí đó lại bị công nhân đem cho nhà tư bản, để đổi lấy những tư liệu sinh hoạt mà anh ta nhận về. Do đó, với bản thân anh ta, sức tái sản xuất ấy đă mất đi rồi.

Hăy lấy một ví dụ. Một người làm công làm việc cả một ngày trên mảnh ruộng của chủ, để nhận được 1 đồng, c̣n chủ ruộng nhờ lao động ấy mà thu được 2 đồng. Người chủ không chỉ thu lại được số giá trị mà ḿnh đă trả cho người làm công nhật, ông ta c̣n lấy được gấp đôi số đó. Vậy là ông ta đă tiêu dùng một cách sinh lợi, một cách sản xuất, 1 đồng mà ḿnh trả cho người làm công nhật. Ông ta dùng 1 đồng đó để mua sức lao động của người làm công, sức lao động ấy tạo ra một giá trị gấp đôi, và 1 đồng biến thành 2 đồng. Ngược lại, người làm công nhật đem trao đổi sức sản xuất của ḿnh, thành quả của sức lực đó thuộc về người chủ, để lấy 1 đồng; 1 đồng đó lại được anh ta trao đổi lấy những tư liệu sinh hoạt, để sử dụng trong một thời gian ngắn hoặc dài. Vậy là 1 đồng đó được tiêu dùng theo hai cách: với nhà tư bản là một cách tái sản xuất, v́ 1 đồng đó được trao đổi lấy sức lao động, sức lực ấy lại tạo ra 2 đồng; c̣n với công nhân là một cách không sản xuất, v́ 1 đồng đó được trao đổi lấy những tư liệu sinh hoạt, mà cái đó sẽ mất đi hẳn, và anh ta chỉ có lại được giá trị ấy bằng cách lặp lại sự trao đổi với người chủ. Như thế là tư bản giả định phải có lao động làm thuê, c̣n lao động làm thuê giả định phải có tư bản. Chúng qui định lẫn nhau, cái nọ tạo ra cái kia.

Có phải công nhân xưởng dệt vải bông chỉ làm ra vải bông? Không. Anh ta c̣n sản xuất ra tư bản. Anh ta tạo ra những giá trị, những giá trị này lại được dùng để thống trị lao động của anh ta, nhằm dùng lao động đó để tạo ra những giá trị mới.

Tư bản chỉ có thể sinh sôi nảy nở bằng cách trao đổi với sức lao động, và tạo ra lao động làm thuê. Sức lao động của công nhân làm thuê chỉ có thể trao đổi với tư bản nếu nó làm tăng thêm tư bản, làm mạnh thêm chính cái thế lực đang nô dịch nó. Vậy, sự tăng lên của tư bản có nghĩa là sự tăng lên của giai cấp vô sản, tức là giai cấp công nhân.

Và thế là giai cấp tư sản và các nhà kinh tế học của nó khẳng định rằng: lợi ích của nhà tư bản và của công nhân là một. Và thực tế là đúng thế! Nếu tư bản không thuê công nhân làm việc th́ công nhân sẽ chết. Nếu tư bản không bóc lột sức lao động th́ tư bản sẽ chết, mà muốn bóc lột sức lao động th́ nó phải mua sức lao động. Tư bản dùng cho sản xuất - tức là tư bản sản xuất - càng tăng nhanh, công nghiệp càng phồn vinh, giai cấp tư sản càng giàu lên, việc kinh doanh càng phát đạt; th́ nhà tư bản càng cần nhiều công nhân, và công nhân càng bán ḿnh với giá cao.

Vậy, điều kiện tiên quyết của việc công nhân có được một đời sống chấp nhận được, đó là sự tăng lên càng nhanh càng tốt của tư bản sản xuất.

Nhưng sự tăng thêm của tư bản sản xuất là ǵ? Đó là việc lao động tích lũy có thêm quyền lực với lao động sống, là việc giai cấp tư sản có thêm quyền thống trị với giai cấp công nhân. Khi lao động làm thuê tạo ra của cải cho kẻ khác, thứ của cải thống trị nó, thù địch với nó, tức là tư bản; th́ nó nhận được công ăn việc làm, tức là tư liệu sinh hoạt, với điều kiện là nó lại phải trở thành một bộ phận của tư bản, trở thành cái đ̣n bẩy, ném tư bản vào cuộc vận động mở rộng ngày càng nhanh.

Nói rằng "lợi ích của tư bản và của công nhân là một" th́ chỉ có nghĩa là: tư bản và lao động làm thuê là hai mặt của cùng một quan hệ. Cái này qui định cái kia, cũng như kẻ cho vay và người đi vay qui định lẫn nhau.

Chừng nào công nhân làm thuê vẫn là công nhân làm thuê, th́ số phận của anh ta c̣n do tư bản định đoạt. Cái lợi ích chung của công nhân và của nhà tư bản, mà người ta tán tụng, là như thế đấy.

1Nếu tư bản tăng lên th́ khối lượng lao động làm thuê tăng lên, số công nhân làm thuê nhiều thêm; tóm lại là tư bản thống trị một khối người đông hơn.

Hăy giả định một trường hợp thuận lợi nhất: tư bản sản xuất tăng lên, lượng cầu về lao động cũng tăng. Do đó mà giá của lao động, tức là tiền lương, tăng lên.

Một ngôi nhà có thể lớn hoặc nhỏ, chừng nào những ngôi nhà xung quanh cũng nhỏ như thế, th́ ngôi nhà ấy vẫn thỏa măn mọi yêu cầu xă hội về nhà ở. Nhưng nếu có một ṭa lâu đài mọc lên cạnh ngôi nhà nhỏ đó, th́ ngôi nhà tụt xuống thành một túp lều. Lúc này, ngôi nhà nhỏ ấy nói lên rằng người chủ của nó có rất ít, hoặc hoàn toàn không có địa vị xă hội; và dù ngôi nhà nhỏ có lớn lên trong tiến tŕnh của nền văn minh, mà ṭa lâu đài bên cạnh cũng lớn lên với mức độ như vậy hoặc mạnh hơn, th́ người sống trong ngôi nhà nhỏ sẽ thấy ngày càng khó chịu, không thỏa măn và ngột ngạt trong bốn bức tường của ḿnh.

Sự tăng lên đáng kể của tiền công giả định sự tăng lên nhanh chóng của tư bản sản xuất. Sự tăng lên nhanh chóng của tư bản sản xuất gây ra sự tăng lên nhanh chóng của của cải, sự xa hoa, những nhu cầu và hưởng thụ của xă hội. Vậy, dù sự hưởng thụ mà công nhân có thể có đă tăng lên, th́ nó lại giảm đi khi so với sự hưởng thụ ngày càng tăng lên của nhà tư bản, mà công nhân không với tới được, và khi so với tŕnh độ phát triển của xă hội nói chung. Những nhu cầu và hưởng thụ của chúng ta là do xă hội sinh ra, thế nên ta so sánh chúng với xă hội, chứ không phải với những vật phẩm để thỏa măn chúng. V́ chúng có tính chất xă hội, nên chúng có tính chất tương đối.

Nhưng tiền lương nói chung không được qui định bởi lượng hàng hóa mà nó có thể đổi lấy. C̣n có những yếu tố khác.

Cái mà công nhân trực tiếp nhận được từ sức lao động của ḿnh là một số tiền nhất định. Có phải tiền lương chỉ do cái giá bằng tiền đó qui định hay không?

Vào thế kỉ XVI, sự lưu thông vàng bạc ở châu Âu tăng lên, do việc t́m ra ở châu Mĩ những mỏ giàu hơn và dễ khai thác hơn. Giá trị của vàng bạc v́ thế mà hạ xuống so với các hàng hóa khác. Công nhân th́ vẫn lĩnh cùng một lượng bạc như trước cho sức lao động của ḿnh. Giá tiền của công việc của họ vẫn giữ nguyên, nhưng tiền lương của họ th́ đă giảm, v́ với cùng một lượng bạc ấy, họ trao đổi được một lượng hàng hóa khác ít hơn. Đó là một trong những điều kiện làm tăng thêm tư bản, khiến giai cấp tư sản nổi lên trong thế kỉ XVI.

Hăy lấy một trường hợp khác. Mùa đông năm 1847, do mất mùa nên giá của những tư liệu sinh hoạt cần thiết nhất - lúa ḿ, thịt, bơ, pho-mát, v.v. - đă tăng vọt. Hăy giả định rằng công nhân vẫn nhận được cùng một số tiền như trước cho sức lao động của ḿnh. Chẳng phải tiền lương của họ đă giảm đi hay sao? Tất nhiên là thế. Với cùng số tiền đó, họ trao đổi được ít bánh ḿ, thịt, v.v. hơn. Tiền lương của họ giảm, không phải v́ giá trị của bạc giảm, mà v́ giá trị của các tư liệu sinh hoạt đă tăng.

Sau cùng, hăy giả định là giá tiền của sức lao động th́ giữ nguyên, trong khi tất cả những sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp đều giảm giá, do việc sử dụng máy móc mới, hoặc do được mùa, v.v. Lúc đó, với cùng một số tiền, công nhân có thể mua nhiều hàng hóa hơn, thuộc đủ các loại. Vậy là tiền lương của họ đă tăng, chỉ v́ giá tiền của nó không thay đổi.

Thế là giá tiền của sức lao động, tức là tiền lương danh nghĩa, không khớp với tiền lương thực tế, tức là lượng hàng hóa thực sự có thể mua bằng tiền lương. Vậy, khi nói tới việc tăng giảm tiền lương, ta phải nhớ tới cả tiền lương thực tế, chứ không chỉ có giá tiền của sức lao động, hay là tiền lương danh nghĩa.

Nhưng cả tiền lương danh nghĩa - tức là số tiền mà công nhân có được khi bán ḿnh cho nhà tư bản, lẫn tiền lương thực tế - tức là lượng hàng hóa mà anh ta có thể mua bằng số tiền đó, cũng chưa phải là tất cả những quan hệ bao hàm trong vấn đề tiền lương.

Trên hết, tiền lương c̣n được qui định bởi quan hệ của nó với tiền lăi, với lợi nhuận của nhà tư bản. Đó là tiền lương so sánh, tiền lương tương đối.

Tiền lương thực tế biểu hiện giá của sức lao động, trong quan hệ với giá của các hàng hóa khác; mặt khác, tiền lương tương đối biểu hiện cái phần mà lao động trực tiếp thu được từ giá trị mới mà nó tạo ra, so với phần mà lao động tích lũy thu được.

Chú thích của người dịch

1 Phần này đăng trên số báo 267, ra ngày 8 tháng Tư. Trong bài báo gốc có ghi "Köln, ngày 7 tháng Tư".


[Chương trước]   [Mục lục]   [Chương sau]