QUYỂN THỨ HAI

1. CHỦ QUYỂN TỐI CAO LÀ KHÔNG THỂ TỪ BỎ

Hệ quả đầu tiên và quan trọng nhất của các nguyên tắc được trình bày ở trên là: Ý chí chung chỉ có thể điều khiển các lực lượng nhà nước theo mục đích của cơ chế nhằm phục vụ lợi ích chung (ND). Nếu như xã hội được lập ra vì có mâu thuẫn giữa các lợi ích riêng, thì một khi các lợi ích riêng được hài hòa, xã hội mới có thể tồn tại. Đó là do trong các lợi ích khác nhau vẫn có cái chung tạo thành mối liên hệ xã hội. Nếu không có một điểm chung nào để cho các lợi ích hài hòa được với nhau thì không một xã hội nào có thể tồn tại. Do đó phải dựa trên lợi ích chung để cai quản xã hội.

Vậy tôi nói : Chủ quyền tối cao là sự thực hiện ý chí chung nên không thể tự nó từ bỏ nó được (ND). Cơ quan quyền lực tối cao là một con người tập thể, nên chỉ tự mình nó đại biểu được cho nó mà thôi. Quyền hành thì có thể chuyển trao được lắm, nhưng ý chí thì không. Nếu ý chí cá nhân có thể nhất trí với ý chí chung trên một số điểm thì nó cũng không thể nhất trí lâu dài và thường xuyên được; vì ý chí cá nhân, do bản chất của nó, hướng về ưu tiên bản thân, còn ý chí chung lại hướng tới sự đồng đều bình đẳng. Càng không thể bảo đảm cho sự nhất trí như thế, có bảo đảm chăng nữa thì đó không phải là tác dụng của tài nghệ mà là tác dụng của ngẫu nhiên. Quyền lực tối cao có thể nói: Bây giờ ta muốn cái mà người kia đang muốn, chứ không thể nói: Ta cũng sẽ muốn cái mà người kia ngày mai sẽ muốn. Bởi vì, nói rằng ý chí chung tự trói buộc mình vào tương lai thì thật là mơ hồ. Vả lại, chẳng cần phải tùy thuộc vào một ý chí nào để đồng tình với một điều không trái với điều mình mong muốn. Nếu dân chúng hứa hẹn một cách giản đơn là sẽ phục tùng vô điều kiện thì dân chúng không còn tính cách là dân chúng nữa; lúc đó sẽ chỉ có ông chủ chứ không còn quyền lực tối cao nữa, và toàn bộ cơ thể chính trị sẽ phải tan rã. Nói như vậy không phải là mệnh lệnh của các thủ lĩnh không thể chuyển thành ý chí chung, mặc dầu thủ lĩnh có thể chống lại ý chí chung mà họ vẫn không chống lại. Trong trường hợp này, nếu tất cả đêu lặng thinh thì có thể giả định là dân chúng đều đồng tình. Điều trên đây sẽ được giải thích thêm qua các chương sau.

2. CHỦ QUYỀN TỐI CAO LÀ KHÔNG THỂ PHÂN CHIA

Chủ quyền tối cao không thể từ bỏ thì cũng không thể phân chia được; bởi vì ý chí là chung [1*] hoặc không phải là chung; nó có thể là của toàn thể dân chúng hoặc là của một bộ phận. Trường hợp thứ nhất, ý chí chung được công bố, là một điều khoản của chủ quyền tối cao, nó trở thành luật. Trường hợp thứ hai, ý chí cá nhân nếu công bố lên thì chỉ là mệnh lệnh pháp quan, cùng lắm chỉ là một nghị định mà thôi. Trong chính trị của ta, tuy về nguyên tắc thì quyền lực tối cao là không thề phân chia, nhưng trên thực tế người ta vẫn chia tách nó trong đối tượng. Họ chia nó thành lực lượng và ý chí, thành quyền lực lập pháp và quân lực hành pháp, thành quyền quan thuế, quyền tư pháp, quyền chiến tranh, thành cai trị đối nội và ứng phó đối ngoại; khi thì người ta trộn lẫn các bộ phận, khi thì người ta tách rời chúng với nhau. Họ biến quyền lực tối cao thành một thứ quái dị, ghép lại bằng nhiều mảnh, giống như họ ghép một hình người từ nhiều cơ thể; mặt của anh này, tay của chị nọ, chân của người kia. Người ta đồn rằng bọn bán thuốc rong Nhật Bản xé đứa trẻ ta nhiều mảnh trước mắt công chúng rồi tung lên trời; khi các mảnh rơi xuống thì nhập lại với nhau thành đứa bé sống hẳn hoi. Cái trò ảo thuật chính trị của ta ngày nay cũng giống như vậy; sau khi tách rời các bộ phận trong cơ thể xã hội, họ dùng uy tín tạp nham mà ghép các bộ phận ấy lại một cánh tùy tiện, chẳng ai hiểu ra làm sao cả. Có sai lầm này là vì không xuất phát từ những khái niệm đúng đắn về quyền uy tối cao mà chỉ nắm lấy những biểu hiện bề ngoài, coi đó là các bộ phận của quyền uy tối cao. Ví dụ người ta coi việc tuyên chiến hoặc giảng hòa là những điều khoản thuộc về chủ quyền tối cao. Thật ra mỗI điều khoản ấy chưa phải là luật mà chỉ là ứng dụng luật, chỉ là điều khoản cá biệt xác định tình huống cụ thể của luật. Chừng nào định nghĩa chữ luật một cách dứt khoát thì ta mới hiểu rõ vấn đê này.

Theo dõi các lối phân chia khác ta cũng sẽ thấy rõ sự lầm lẫn khi người ta tưởng rằng quyền lực tối cao có thể bị phân chia. Những bộ phận quyền hành được chia tách ra đều phụ thuộc vào quyền lực tối cao, đều giả định phải có ý chí tối cao, mỗi bộ phận đều chỉ nhằn thực hiện ý chí tối cao. Có biết bao sự lầm lẫn đã phủ bóng lên quyết định của các nhà soạn thảo luật pháp chính tri, khi họ muốn phán định quyền của các ông vua và của dân chúng theo những nguyên tắc do họ vạch ra.

Trong các chương III và IV quyền thứ nhất của Grotius, mọi người đều có thể thấy nhà thông thái này và dịch giả của ông là Barbayrac đã lấn lộn lung tung trong những lời ngụy biện của họ; họ sợ nói quá hoặc nói không đủ về quan điểm của mình, họ sợ các lợi ích mà họ phải điều hòa bị va chạm nhau. Grotius lưu vong ở Pháp; bất mãn với tổ quốc mình và muốn ve vãn vua Louis III (17) đã dâng cho vua cuốn sách của ông, trong đó ông không ngại gì tước hết mọi quyền của dân chúng và khoác lên mình vua tất cả mọi nghệ thuật của quyền hành. Đó cũng chính là khẩu vị của Barbayrac người đã dâng tặng bản dịch sách Grotius cho vua Anh Georges đệ nhất (Georges ler) (18). Chẳng may sự phế truất vua Jacques II (19), mà ông ta gọi là thoái vị, đã buộc ông phải dè dặt, quanh co, lần lữa, để khỏi phải gọi vua Guillaume (20) là thoán đoạt. Nếu hai tác giả này chấp nhận những nguyên lý đúng đắn thì họ đã vượt.qua được khó khăn và luôn luôn giữ được tính nhất quán. Nhưng như vậy thì buồn thay cho họ là họ phải nói lên sự chát, và họ chỉ được tán dương dân chúng mà thôi.

Thế nhưng sự thật có bao giờ dắt người ta lên địa vị. Dân chúng cũng không thể phong chức đại sứ, cất nhắc học vị giáo sư và cũng chẳng có quyền tăng lương bổng.

3. NẾU Ý CHÍ CHUNG CÓ THỂ LẦM LẪN

Ý chí chung bao giờ cũng thẳng và luôn luôn hướng tới lợi ích chung nhưng không phải mọi điêu luận giải của dân chúng đều là đúng đắn. Ai cũng muốn mình được tốt lành, nhưng có phải lúc nào người ta cũng nhìn thấy cái tốt lành đâu. Người ta chẳng bao giờ cố tình làm hư hỏng dán chúng, nhưng thường thường người ta vẫn lừa dối dân, đó là lúc dường như người ta mong muốn điều xấu.

Cũng thường khi có sự khác nhau giữa ý chí của mọi người và ý chí chung. ý chí chung chỉ tính đến lợi ích chung; ý chí của mọi người lại nhìn vào lợi ích riêng và chỉ là tổng số những ý chí riêng lẻ. Nếu trừ đi những ý chí riêng lẻ xung khắc nhau quá quắt [2*] thì số dư sẽ là ý chí chung. Nếu dân chúng được thông tin một cách đầy đủ, khi họ luận giải vấn đê, dù cho là không ai trao đổi riêng với ai, thì qua rất nhiều sự khác biệt nhỏ, cuộc luận giải vẫn cứ dẫn tới ý chí chung, kết quả sẽ luôn luôn tốt đẹp. Nhưng khi có những âm mưu, những nhóm nhỏ dựa đẫm vào tập thể lớn, thì ý chí chung của mỗi nhóm lẻ chỉ là ý chí riêng đối với cả quốc gia; lúc đó không thể nói ràng mỗi người là một cử tri, mà phải nói mỗi nhóm nhỏ là một cử tri, và kết quả sẽ ít gần với ý chí chung hơn. Cuối cùng, khi một nhóm nào to phình lên trùm lợp tất cả các nhóm khác, ta sẽ không có được tổng số eủa nhiễu sự khác biệt nhỏ , mà chỉ có một sự khác biệt duy nhất, lúc đó sẽ không còn ý chí chung nữa, và ý kiến quyết đinh chỉ là ý kiến riêng.

Muốn cho ý chí chung được bày tỏ rõ rệt thì trong một Nhà nước không nên có các phe nhóm riêng, để cho mỗi công dân được quan niệm theo ý họ [3*]. Đó là thể chế tuyệt vời duy nhất của Lycurgue (21) vĩ đại. Ví như có những phe nhóm riêng lẻ thì nên nâng số lượng các nhóm lên, và ngăn tránh sự không đồng đều giữa các phe nhóm,như Solon (22), Numa (23), Servius (24) đã từng làm. Đó là cách đề phòng tốt nhất để bảo đảm ý chí chung được soi sáng và dân chúng không bị lầm lẫn.

4. GIỚI HẠN CỦA QUYỀN LỰC TỐI CAO

Nếu Nhà nước và thành bang chỉ là một con người tinh thần nhờ sự đoàn kết của các thành viên mà tồn tại, và nếu điều quan tâm chủ yếu, bậc nhất của Nhà nước là tồn tại, thì phải có một lực lượng chung có tính chất cưỡng chế để động viên và xếp đặt cho mỗi bộ phận đều được thỏa đáng với toàn bộ. Thiên nhiên đã ban cho con người cái quyền tuyệt đối sử dụng tứ chi, thì công ước xã hội cũng phải trao cho cơ thể chính trị cái quyền tuyệt đối đối với các thành viên của nó. Chính cái quyền tuyệt đối ấy được điều hành bằng chí chung, mang tên là quyền lực tối cao.

Nhưng ngoài con người công cộng (tức là quyền lực tối cao) đó, ta phải xem xét đến những con người riêng lẻ, thành viên của xã hội, mà cuộc sống và tự do của họ tất yếu phải phụ thuộc vào xã hội. Vậy phải phân biệt quyền của các công dân và quyền của cơ quan quyền lực tối cao [4*], đồng thời phân biệt nghĩa vụ của thần dân với quyến tự nhiên mà con người được hưởng.

Cái mà mỗi người hy sinh về quyền năng, tài sản, tự do của họ theo Công ước xã hội chỉ là một phần của quyền năng, tài sản và tự do chung mà cộng đồng người được sử dụng. Nhưng ta cũng phải nhận rằng chỉ có cơ quan quyền lực tôi cao là người phán xét về cách sử dụng chung đó.

Một công dân phải làm những gì cho quốc gia do cơ quan quyền lực tối cao yêu cầu. Nhưng cơ quan tối cao cũng không thể yêu cầu, hoặc mong muốn công dân làm điều vô ích cho cộng đồng; vì theo qui luật lý tính cũng như qui luật tự nhiên, việc vô ích không có nguyên nhân thì không thể xảy ra được.

Những mối dây ràng buộc chúng ta vào cơ thể xã hội chỉ là cưỡng chế khi nào nó là sự ràng buộc cả hai phía, có đi có lại. Tính chất của nó là trong khi thực hiện sự ràng buộc, người ta vừa làm cho kẻ khác lại vừa làm cho chính mình. Vì sao ý chí chung bao giờ cũng thẳng thắn, mà mọi người thì luôn luôn quan tâm đến hạnh phúc cho mỗi một cá nhân mình ? Chỉ tại không ai là không nắm vững từ ngữ "mỗi người". Trong khi tán thành với mọi người họ cũng chỉ nghĩ đến bản thân họ thôi. Điều này chứng minh rằng sự bình đắng về quyền, và khái niệm công lý do đó nảy sinh đều phát tích từ bản chất của con người, ai cũng muốn giành ưu tiên về phần mình. Ý chí chung thuôn thật sự là ý chí chung,thì phải là ý chí chung từ trong đối tượng và trong bản chất của nó, phải từ tất cả và ứng dụng cho tất cả. Ý chí chúng sẽ nhất sự đúng đắn tự nhiên khi nó thiên về nhột đối tượng riêng lẻ nhất định (ND), bởi vì lúc đó ta sẽ không có được những nguyên tắc chỉ đạo chính xác khi phải phán đoán một điều xa lạ. Gặp một trường hợp phải xử trí việc tư, mà công ước chung xưa nay chưa nói tới thì thật là khó phán xét.' Đây là vụ án mà một bên là những cá nhân eo liên đới và bên kia là công chúng, nhưng ta luiullg tìm ra luật mà cũng chẳng thấy quan tòa để tuyên xử. Trường hợp này ta không thể dựa vào lời phán quyết dứt khoát của ý chí chung được. Lời phán quyết ấy chỉ có thể là thiên về bên này hoặc thiên về bên kia nếu bên này cho là đúng đắn thì bên kia cho là xa lạ, thiên lệch; do đó dẫn tới bất công và sai lầm. Nếu như ý chí cá nhân không thể nào đại biểu cho ý chí chung,thì ý chí chung một khi đã thiên về đối tượng cá nhân sẽ mất hết bản sắc không thể phán xét đúng đắn về một người hay một việc nào nữa. Ví dụ, khi dân chúng thành Athène bầu lên hay bãi miễn thủ lĩnh của họ, họ gắn vinh quang cho người bầu và xử phạt người bị truất. Bằng nhiều nghị định cụ th, họ thực hiện tất cả luật lệ của Nhà nước, không phân biệt đối xử với một ai. Lúc đó dân chúng không hành động với tư cách quyền lực tối cao mà với tư cách quan tòa. Điều trên đây có vẻ trái với ý kiến chung nhưng xin hãy để cho tôi trình bày tiếp ý kiến của mình.

Như trên, ta thấy rằng cái tổng quát mọi ý chí là ít hơn tổng số tiếng nói mà lợi ích chung bao gồm lại; bởi vì trong cơ chế này, mỗi người tất nhiên phải theo những điều kiện mà họ muốn áp đặt cho kẻ khác. Khi người ta bàn cãi về công việc tư nhân, nếu quyền lợi và công lý phù hợp nhau thì cuộc luận giải chung sẽ đúng đắn, đó là do quyền lợi chung đã dung hợp và đồng nhất qui tắc của quan tòa với lý lẽ của phe phái.

Từ khía cạnh nào lần lên tới nguyên lý ta cũng đều đi đến một kết luận như nhau. Nhớ rằng công ước xã hội qui định sự bình đẳng giữa các công dân; mọi người đều phải cam kết những điều kiện như nhau và được hưởng quyền ngang nhau. Do bản chất của công ước mà mọi điều khoản chính thức của ý chí chung đều ràng buộc hoặc tạo ra thuận lợi cho mọi công dân, đến mức mà cơ quan quyền lực tối cao chỉ cần biết dân tộc nói chung, không cần phân biệt bất cứ một thành viên riêng lẻ nào.

Vậy điều khoản về quyền lực tố cao là gì ? Đó không phải một bản công ước giữa cấp trên với cấp dưới, mà là công ước giữa cơ thể với tứ chi. Bản công ước này thật chính đáng vì có khoán ước xã hội làm cơ sở; thật công bằng hợp lý vì có tác dụng chung cho tất cả, thật hữu ích vì nó chỉ nhằm một đối tượng duy nhất là mưu lợi ích cho mọi người, thật vững chắc vì nó được bảo đảm bằng lực lượng công chúng và quyền năng tố cao. Chừng nào các công dân chỉ phục tùng những công ước như vậy thì họ chẳng phải cúi đầu tuân lệnh người nào, mà chỉ tuân theo ý chí của mình thôi.

Hỏi quyền của cơ quan quyền lực tối cao và quyền của công dân tương ứng với nhau sẽ lấy đâu làm giới hạn, tức là hỏi rằng quyền lực tối cao và quyền của công dân có thể ràng buộc lẫn nhau đến mức nào, ở điểm nào: Mỗi người ràng buộc với tất cả vì tất cả ràng buộc với mỗi người. Như vậy quyền của cơ quan tối cao đều là tuyệt đối, là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, cũng không và không thể vượt qua giới hạn của các công ước tổng quát; mọi người có thể sử dụng thoải mái quyền tự do và phúc lợi mà các công ước đã dành cho mình; đến mức quyền lực tối cao không thể trao trách nhiệm cho người này nặng nề hơn người khác, vì như thế sẽ là thiên vi, và không xứng đáng với quyền lực tối cao nữa.

Ví phỏng những điều thiên vị, phân biệt đôi xử như trên được chấp nhận, thì trong công. ước xã hội sẽ không có một sự hy sinh chân thật nào của cá nhân. Nếu có hy sinh chẳng qua là họ đổi cảnh ngộ trước kia mà lấy cảnh ngộ hiện tại mà họ thích thú hơn. Đó không phải là hy sinh mà chỉ là đổi chác vụ lợi, đổi cái bập bênh chưa chắc chắn để lấy cái tất hơn và ăn chắc hơn; như đổi sự độc lập tự nhiên để lấy tự do, đổi cái quyền dược làm hại người khác để lấy quyền an ninh cho bản thân, đổi sức lực có hạn của mình mà nhiều người có thể đánh bại để lấy quyền bất khả xâm phạm được cộng đồng xã hội bảo lĩnh. Ngay khi người công dân hiến dâng sinh mệnh cho Nhà nước thì bản thân họ cũng được bảo vệ thường xuyên; còn như dùng sinh mệnh mình để bảo vệ chính mình thì có lợi ích gì ? Lấy gì bù lại cái sinh mạng bị mất đi? Trong trạng thái tự nhiên, một khi buộc phải lao vào cuộn xâu xé, con người ném cả sinh mạng vào chỗ nguy nan để tự bảo vệ. Vậy là chỉ mất mạng đê được sinh tồn hay sao ?

Mọi người phải chiến đấu vì Tổ quốc, điều đó là đúng; nhưng chiến đấu và hy sinh tính mạng vì mình thì có ích gì? Bỏ chạy để được an toàn có phải là hơn không? Bỏ chạy ít nhất cũng đỡ nguy hiểm cho tính mạng hơn là xông vào đánh nhau để mất mạng.

5. QUYỀN SINH TỬ

Hỏi rằng các cá nhân không có quyền sử dụng sinh mạng của mình, sao lại có thể trao cho cơ quan tối cao cái quyền mà mình không có ấy? Câu hỏi này có vẻ khó giải đáp chỉ vì cách đặt vấn đề không đúng. Mọi người có quyền liều mình để tự bảo vệ mình chứ! Một người bị chết vì nhảy qua cửa sổ để thoát nạn cháy nhà, có ai kết tội anh ta là tự sát? Có ai kết tội những người chết đuối khi chèo thuyền vào bờ để tránh cơn bão ?

Mục đích của công ước (traité) xã hội là bảo vệ những người ký kết công ước. Ai muốn tới đích thì cũng muốn có phương tiện; mà phương tiện thì không tránh khỏi đôi khi không may bị sứt mẻ. Ai muốn dựa vào kẻ khác để bảo vệ sinh mạng mình thì cũng phải đưa sinh mạng mình ra khi mọi người cần đến. Người công lân không thể cân nhắc trước tai họa mà luật nước đã yêu cầu anh phải đương đầu. Khi nguyên thủ quốc gia bảo Nước nhà cần đến cái chết của anh,thì người công dân phải chết. Cái chết đó chẳng qua là điều kiện đổi lấy sự sống an toàn mà anh ta được hưởng từ trước tới đó. Lúc này sinh mạng anh không còn là một công trình sáng tạo của thiên nhiên nữa, mà là một cống vật có điều kiện cho quốc gia.

Tội tử hình đối với phạm nhân có lẽ cũng theo một quan điểm tương tự. Không muốn làm nạn nhân của bọn sát nhân, người ta đành chịu tội chết nếu tự mình lại phạm tội giết người. Trong sự thoả thuận này người ta chỉ nghĩ đến bảo đảm tính mệnh mà không nghĩ đến sử dụng tính mệnh; cả hai bên thỏa thuận không có ai là kẻ tính đến chuyện để cho mình bị treo cổ.

Một người làm bậy, vi phạm quyền xã hội, trở thành kẻ loạn nghịch và phản bội tố quốc, hắn phá hoại pháp luật quốc gia, không còn là thành viên quốc gia, mà là kẻ tuyên chiến với quốc gia. Sự sinh tồn của quốc gia không thể dung hợp với sự sinh tồn của hắn; một trong hai bên phải bị tiêu diệt; và khi người ta xử tử hắn không phải là xử một công dân, mà là xử một kẻ thù. Các thủ tục tố tụng, tuyên án đều chứng minh hắn đã phá hoại hiệp ước xã hội nên không còn là thành viên xã hội nữa. Một khi hắn bị bắt giữ và nhân tội, hắn phải bị loại trừ như một kẻ vi phạm công ước, hoặc bằng án tử hình như một kẻ thù của tất cả mọi người. Một kẻ thù như thế không còn là con người tinh thần nói chung mà là con người cụ thể phải vận dụng luật chiến tranh với hắn: giết kẻ bại trận.

Nhưng người ta sẽ nói: xử tội một người là điều khoản cá biệt. Phải, xử tội như vậy không dính gì đến cơ quan quyền lực tối cao; đó là quyền mà cơ quan tối cao có thể tham chiến nhưng không ứng dụng cho bản thân nó. Hay dùng hình phạt bao giờ cũng là biểu hiện của yếu đuối và lười biếng trong việc cai trị. Không có cái ác nào mà lại không thể cải thiện được trong một việc nào đó. Chỉ có quyền xử tử để răn đe chung khi ta không thể giữ kẻ tội phạm nhột cách yên ổn.

Quyền ân xá hoặc miễn tội cho kẻ đã bị tuyên án là thuộc về kẻ đứng trên quan tòa và luật pháp. Quyền này cũng chỉ nên dùng một cách họa hoằn thôi: Trong một nước khéo cai trị, ít dùng hình phạt không phải vì thủ lĩnh có tính khoan dung mà vì ít người phạm tội. Khi Nhà nước suy thoái, tội phạm quá nhiều thì khó trừng phạt.

Dưới chế độ cộng hòa La Mã, Viện nguyên lão, quan chấp chính không hay khoan hồng, mà dân chúng cũng không thích khoan hồng, mặc dầu nhiều khi họ thay đổi sự phán xét của chính mình. Hay khoan hồng tức là báo hiệu rằng sự trừng phạt sẽ không cần nữa; mọi người thấy như thế hoặc tự nó sẽ dẫn đến chỗ đó. Nhưng tôi nghe trái tim mình đang thì thầm và giữ ngòi bút tôi lại: ta hãy trao đổi những vấn đề này với một người chưa hề phạm tội và không cần đến lượng khoan hồng.

6. BÀN VỀ LUẬT

Với công ước xã hội, chúng ta làm cho cơ thể chính trị tồn tại và có một đời sống. Ta lại phải lấy việc lập pháp để làm cho cơ thể chính trị có vận động và có ý chí; vì điều khoản đầu tiên làm cho cơ thể chính trị hình thành và cố kết chưa phải là điều khoản làm cho nó được bảo toàn.

Sự vật tốt lành và hợp với trật tự là do bản chất của nó, chứ không phụ thuộc vào các công ước giữa người với người.Tất cả công lý là tự Trời mà ra. Trời là nguồn gốc của công lý. Nhưng nếu ta, biết tiếp nhận công lý từ Trời thì ta chẳng cần đến Chính phủ và luật pháp nữa. Tất nhiên là có một công lý phổ thông toát ra từ lý trí; nhưng công lý đó muốn được chấp nhận nhận phải có đi có lại. Xem xét các sự vật một cách phàm tục, ta thấy dường như thiên nhiên đã qui đinh rằng luật công bằng không ăn nhằm gì với con người. Pháp luật chỉ làm tốt cho kẻ ác và làm xấu cho người đứng đắn. Anh ta tôn trọng luật pháp đối với mọi người, nhưng mọi người lại không tôn trọng luật pháp với anh ta. Vậy phải có những công ước và những đạo luật để gắn liền quyền hạn và nghĩa vụ, đưa công lý về với đối tượng của nó.

Trong trạng thái tự nhiên, mọi cái đều là chung cho mọi người, tôi chẳng phải làm gì cho những người mà tôi không hứa hẹn gì với họ. Tôi chỉ nhận làm cho người khác cái gì mà tôi thấy bổ ích cho tôi. Trong trạng thái dân sự thì không thể, ở đây mọi quyền đều do luật qui đinh.

Vậy rốt cuộc luật lệ là gì ? Chừng nào người ta còn gắn cho chữ luật những ý niệm siêu hình thì người ta cứ việc luận giải mà không cần phải hiểu thấu; và khi người ta nói về qui luật tự nhiên thi người ta chẳng biết gì hơn về luật của Nhà nước.

Trên kia tôi đã nói không có gì là ý chí chung trên một đối tượng cá nhân. Đối tượng cá nhân ấy có thể là trong Nhà nước hoặc ngoài Nhà nước. Nếu ở ngoài Nhà nước thì một ý chí khác với cá nhân anh không thể lấy chí chung đối với anh được. Nếu đối tượng cá nhân đó là ở trong Nhà nước, thì y chí chung dẫu là khác với ý riêng của anh, vẫn là ý chí chung đối với anh. Lúc đó hình thành một quan hệ giữa một bên là cá nhân, bên kia là toàn thể trừ cá nhân ấy. Nhưng toàn thể bớt đi một cá nhân thì không còn là toàn thế nữa, và mối quan hệ trên đây chỉ là giữa hai bên không đều nhau; ý chí bên này không thể là ý chí chung cho cả bên kia được.

Khi toàn dân qui định một điều gì cho toàn dân thì họ chỉ xem xét đến toàn thể, nếu hình thành mối quan hệ thì phải là quan hệ giữa toàn thể trên một cách nhìn này với toàn thể trên một cách nhìn khác; cái toàn thể không hề bị chia tách ra. Như vậy chất liệu để xây dựng là chất liệu chung, cũng như ý chí xây dựng là ý chí chung. Cái đó tôi gọi là luật. Khi tôi nói luật bao giờ cũng là tổng quát chung cho mọi người (ND), tôi hiểu rằng luật coi tất cả thần dân là một cơ thể, mà trừu tượng hóa các hành động, không coi con người như một cá nhân hoặc như một hành động riêng lẻ. Luật có thể qui đinh rằng sẽ có một số đặc quyền, nhưng không nói rõ đặc quyền cho một cá nhân cụ thể nào. Luật cũng có thể chia công dân làm nhiều hạng, nhưng không chỉ định cụ thể người nọ người kia là thuộc hạng này hay hạng khác. Luật có thể qui đinh việc thành lập chính phủ và hệ thống cấp bậc, nhưng không cử ra một ông vua hay chỉ định ra một gia tộc nào là hoàng gia. Tóm lại mọi chức năng liên quan đến đối tượng cá nhân không phải là chức năng của quyền lực lập pháp.

Trên tư tưởng này ta sẽ thấy rằng không nên hỏi ai là người làm ra luật, vì luật là những điều khoản của ý chí chung. Cũng không nên hỏi vị nguyên thủ có đứng trên luật không, vì ông ta cũng chỉ là một thành viên của Nhà nước. Cũng không nên hỏi luật có thể nào bất công chăng, vì không ai lại bất công với chính bản thân mình. Cũng không nên hỏi ta được tự do và phải tuân theo luật như thế nào, vì luật chỉ là ghi lại ý chí của ta mà thôi.

Ta cũng lấy rằng luật lệ thống nhất cái tổng thể của ý chí với tổng thể của đối tượng. Cái mà một người, vô luận chức tước gì, ra lệnh cho lột cá nhân làm, không phải là luật. Ngay cái mà cơ quan quyền lực tối cao ra lệnh cho một đối tượng cá nhân cũng không phải luật, mà chỉ là một nghị định. Nó không phải việc của cơ quan tối cao mà của cá nhân pháp quan.

Vậy nước cộng hòa là tất cả những nước nào do luật trị vì bất kể trị vì dưới hình thức nào. Luật trị vì tức là lợi ích chung trị vì. Cái chung là một cái gì đó khá quan trọng.Tất cả những chính phủ chính đáng đều là chính phủ cộng hòa [5*]. Sau đây tôi sẽ giải thích chính phủ là gì.

Luật chỉ là những điều kiện chính thức của việc tập hợp dân sự. Dân chúng tuân theo luật phải là người làm ra luật (ND) . Chỉ những người họp thành xã hội mới có quyền xử lý các điều kiện xã hội. Nhưng người ta xử lý nó như thế nào? Phải chăng đó là một cuộc thảo luận chung, theo một sáng kiến nhất thời ? Cơ thể chính tri có một bộ máy nào để công bố ý chí chung hay không ? Ai sẽ làm cho cơ quan đó có được sự nhìn xa cần thiết để soạn thành các luật và cồng bố

7. BÀN VỀ NGƯỜI LẬP PHÁP

Muốn tìm ra chung quy tắc xã hội tốt nhất thích hợp với quốc gia thì phải có một trí tuệ ưu việt. Trí tuệ ấy thấy rõ mọi ham muốn của con người mà không thiên về một ham muốn nào. Trí tuệ ấy không dính líu tới bản chất của từng người nhưng am hiểu nó thật tường tận. Hạnh phúc của trí tuệ ấy không phụ thuộc vào chúng ta, nhưng vẫn muốn chăm lo hạnh phúc cho ta. Trí tuệ ấy xây dựng một sự nghiệp cao cả, lâu dài, có thể phải làm trong một thế kỷ và hưởng thụ ở thế kỷ sau [6*] Nếu thế thì phải là thần thánh mới đem lại luật pháp cho con người được.

Trên đây là cách luận giải của Caligula trong hành động thực tế của ông. Còn Platon (25) thì ứng dụng điều trên đây vào luật học để đinh nghĩa con người dân sự và con người vương giả trong cuốn sách "Bàn về trị vì" (du Règne) của ông. Nhưng nếu một ông vua lớn là người hiếm có, thi nhà lập pháp lớn sẽ là người như thế nào nữa kia. Ông vua chỉ làm theo mô hình của nhà lập pháp. Nhà lập pháp là kĩ sư sáng chế ra máy; ông vua chỉ là người thợ dựng máy lên và vận hành máy.

Montesquieu (26) nói : "Khi xã hội mới hình thành, thủ lĩnh các nước cộng hòa tạo nên thể chế và sau đó chính thể chế lại đào tạo nên các thủ lĩnh của nền cộng hòa" .

Ai dám đứng ra xây dựng chế độ cho cả một dân tộc. Người đó phải cảm thấy mình ở tư thế làm biến đổi tính chất con người, cải tạo được từng cá nhân, còn bản thân ông ta là một tổng thể hoàn chỉnh và đơn độc, là bộ phận của một tổng thể lớn hơn; người đó phải cảm thấy mình ở tư thế cải biến cấu trúc loài người để tăng cường nó, thay đổi sự tồn tại chỉ có ý nghĩa tinh thần và cục bộ bằng một sự tồn tại vật chất độc lập, mà mỗi người chúng ta đều được thiên nhiên ban cho. Tóm lại, người lập pháp đó rút đi sức mạnh vốn có trong mỗi người, rồi thay nó bằng một sức mạnh khác, sức mạnh mới này mỗi khi vận đụng nó thì phải có sự giúp đỡ của người đồng loại.

Như vậy, sức mạnh tự nhiên bi mất đi, bị hủy bỏ đi bao nhiêu thì sức mạnh mới thu được càng lớn lên và lâu bền bấy nhiêu, cơ chế xã hội càng vững chắc và hoàn chỉnh bấy nhiêu. Nếu mỗi công dân không là gì cả, và chỉ có thể là một cái gì nhờ tất cả mọi người mà tồn tại, thì sức mạnh thu được của tất cả mọi người phải bằng hoặc lớn hơn tổng số sức mạnh tự nhiên của mọi cá nhân cộng lại.

Có thể nói rằng lập pháp là đỉnh cao nhất của sự hoàn thiện mà sức thạnh tập thể có thể đạt tới (ND). Người lập pháp, về tất cả mọi phương diện là một người phi thường trong quốc gia; phi thường chẳng những do thiên tài mà chính là do được sử dụng nữa. Người lập pháp quyết không phải một vị pháp quan hay một quốc vương. Việc sử dụng nhà lập pháp không đưa vào trong hiến pháp, nhưng việc sử dụng đó lại tạo lập ra nền cộng hòa. Đó là một chức năng đặc biệt và cao cả, không giống với chức năng của một con người cụ thể, bởi vì ai đã truyền lệnh cho người thì không được truyền lệnh cho pháp luật. Và kẻ đã truyền lệnh cho pháp luật cũng không nên truyền lệnh cho người. Không như thế thì luật pháp vốn là công cụ chế ngự tham vọng sẽ trở thành công cụ để duy trì bất công, sẽ không tránh khỏi tình trạng các quan điểm cá nhân làm mờnhạt sự trong sáng của tác phẩm. Khi Lycurgue đưa pháp luật về cho tổ quốc, việc đầu tiên là ông xóa bỏ ngôi vua. Điều đó đã thành một tập quán lớn của các thành bang Hi Lạp khi họ trao quyền lập pháp cho một người ngoại lai. Các nước cộng hòa hiện đại trên đất Ý thường học theo tập quán này. Nước Cộng hòa Genève cũng làm thế, và thấy thế là tốt [7*].

La Mã đến thời cực thịnh thì bắt đầu quy vào cho một số người có quyền lập pháp và quyền cai trị tối cao; từ đó nảy sinh các tệ nạn độc đoán chuyên quyền và Nhà nước La Mã cổ đại bước dần vào chỗ suy vong.

Tuy nhiên, các vị trong hàng thập đại pháp quan La Mã không được phép thông qua một đạo luật nào quy đinh quyền hạn của họ. Họ nói với dân chúng rộng: "Những điều chúng tôi đề nghị chỉ biến thành luật chừng nào dân chúng đồng ý. Hỡi công dân La Mã, các bạn hãy làm ra luật để bảo đảm lấy hạnh phúc của mình.

Vậy người chấp pháp không nền có quyền lập pháp (ND) và dân chúng dầu muốn cũ ng không thể trao quyền lập pháp cho người chấp pháp. Vì theo như Công ước cơ bản thì chỉ có ý chí chung buộc các cá nhãn phải theo nó. Người ta không bao giờ chắc rằng ý chí cá nhân tự nó phù hợp với với ý chí chung. Chỉ có thể tin như thế sau khi đã đặt ý chí cá nhân dưới cuộc đầu phiếu tự do của dân chúng.

Tôi đã nói điều trên đây, nhưng nhắc lại cũng không thừa. Như vậy ta thấy trong công trình lập pháp có hai điều dường như mâu thuẫn nhau. Một thiết chế vượt lên trên sức mạnh con người, và thực hiện thiết chế đó là một quyền uy không là cái gì hết.

Còn một điều rắc rối nữa đáng được lưu ý: Các nhà thông thái muốn nói với người tầm thường bằng ngôn ngữ bình dân cũng chưa chực được người ta hiểu mình. Có hàng ngàn thứ tư tưởng không thể diễn đạt bằng ngôn ngữ bình dân. Những vấn đề quá khái quát, những đối tượng quá xa xôi đều ở ngoài tầm nhận thức của con người bình dân là những người thường chỉ thích thú những vấn đề liên quan tới quyền lợi là những người riêng của mình, khó mà nhận ra các điều lợi do các luật đúng đắn mang lại, thông qua sự tước bỏ những quyền cá nhân của họ. Muốn cho một dân tộc đang hình thành được hưởng những phương châm chính trị tốt đẹp và tuân theo luật cơ bản của lý trí quốc gia thì phải lộn ngược kết quả làm nguyên nhân: Đầu óc xã hội là do thể chế tạo ra đã chủ trì thể chế đó. Con người trước khi làm ra luật đã phải là con người đo luật đào tạo nên.

Vậy thì người lập pháp không thể dùng sức mạnh cũng như lý lẽ; ông ta phải nhờ đến một thứ quyền uy khác, có thể chinh phục người ta mà không dùng đến bạo lực, có thể thuyết phục người ta mà không cần phải nói lý lẽ.

Cho nên ta thấy rằng qua mọi thời đại thủ lĩnh quốc gia đều phải nhờ đến sự can thiệp của Trời. Họ gắn cho Trời sự thông thái của chính họ, để dân chúng phải phục tùng luật pháp Nhà nước y như phục tùng các quy luật tự nhiên vậy. Trong khi thừa nhận quyền lực của Trời để tạo ra con người, tạo ra thành bang và tuân thần Trời một cách tự do, thì dân chúng cũng tự nguyện mang lấy cái tròng phúc lợi công cộng của luật pháp.

Cái lý lẽ cao siêu ấy vượt lên trên tầm của con người bình thường, chính là lý lẽ mà người lập pháp gán cho thần thánh để dùng quyền lực siêu nhân lung lạc trì tuệ dân chúng [8*].

Nhưng không phải ai cũng có thể làm cho thần thánh lên tiếng và được tin theo trong khi họ tuyên xưng mình là kẻ diễn đạt ý Trời. Tâm hồn cao cả của người lập pháp chính là điều kỳ diệu xác nhận chức năng của ông ta.

Để ép dân chúng, người khắc mệnh lệnh lên đó, hoặc mượn lời sấm truyền, hoặc vờ vĩnh làm chuyện mua bán bí mật với thần thánh; hoặc dựng lên những con vật biết nói vào tai dân, hoặc tìm ra những biện pháp thô bạo khác. Những kẻ ấy chỉ biết tập hợp một cách ngẫu nhiên những người không phương hướng, chứ không thể nào xây dựng được một đất nước vững bền. Sự nghiệp rởm của họ sẽ tiêu tan sau khi họ chết. Mọi thứ uy tín giả tạo chỉ làm ra những mối liên hệ tạm thời; chỉ có trí tuệ uyên bác mới tạo nên những mối liên hệ vững bền. Luật Do Thái (28) luôn có thể bị thay thế, luật của con trai Ismael (29) thì đã trị vì phân nửa thế giới trong mười thế kỷ, cho đến nay còn được các bậc vĩ nhân truyền tụng.

Những đầu óc bè phái mù quáng, kiêu căng coi các bậc vĩ nhân như bọn bịp đời, còn các nhà chính khánh đúng đắn thì thán phục tài năng lớn lao và thể chế vững bền mà các vĩ nhân đã dựng nên.

Qua những điều được trình bày trên đây, xin chớ kết luận như Warburton ( 30 ) rằng chính trị và tôn giáo có chung một đối tượng; mà nên kết luận rằng trong nguồn gốc dân tộc, tôn giáo là công cụ của chính trị và chính trị cũng là công cụ của tôn giáo.

8. DÂN CHÚNG

Trước khi dựng lâu đài lớn, nhà kiến trúc thăm dò xem đất có chịu nổi trọng lượng của lâu đài hay không. Nhà lập hiến thông minh không bắt tay ngay vào việc soạn luật, trước đó ông xem xét dân chúng là người tiếp nhận luật có thích ứng được với luật không (ND) : Vì thế mà Platon đã từ chối không soạn thảo luật cho dân Arcadie (31) và dân Cyrène (32) , vì biết họ là dân giàu có, không thể chịu nổi sự bình đẳng. Cũng do vậy mà ở Crète (33) có luật tốt mà lại có nhiều người ác, vì vua (Minos) (34) chỉ đưa một dân tộc tội lỗi vào trật tự.

Trên trái đất có hàng ngàn dân tộc đã nổi bật lên, nhưng chưa bao giờ có được luật pháp tốt. Một số dân tộc khác đã từng có luật pháp tốt nhưng chỉ được một thời gian ngắn.

Phần lớn các dân tộc cũng như con người, chỉ dễ bảo khi còn trẻ tuổi,về già càng khó uốn nắn. Một khi phong tục tập quán đã bắt rễ sâu, muốn thay đổi nó thì thật nguy hiểm và vô hiệu; dân chúng không chịu nổi ngay khi người ta động đến những cái xấu xa của họ để giúp cho họ tiễu trừ cál xấu ấy, chẳng khác gì những con bệnh đần độn và nhút nhát thường sợ hãi khi trông thấy bác sĩ.

Nói như thế không có nghĩa là các dân tộc không thể có lúc trẻ lại. Người ta đôi khi vì mắc bệnh mà quên hết quá khứ. Các dân tộc cũng có thời kỳ cách mạng sôi động, khủng hoảng dữ dội gây ra kinh hoàng, nhưng rồi người ta quên đi. Được kích thích bằng những cuộc nội chiến, Nhà nước thoát khỏi tay thần chết lại phục hưng từ đống tro tàn, lấy lại sức sống của thời trai trẻ. Đó là những trường hợp của thành bang Sparte thời Lycurgue. Đó là trường hợp của La Mã dưới triều đại các vua Tarquins (35). Đó cũng là trường hợp của Hà Lan và Thụy Sỹ trong thời đại chúng ta ngày nay, sau khi các bạo chúa đã bị trừ khử .

Nhưng các trường hợp như trên là hiếm có . Trong các quốc gia ngoại lệ đó, lý trí luôn luôn thể biện trong hiến pháp độc đáo của họ. Ngay các quốc gia này cũng không thể có được hai lần hồi sinh như thế, vì họ chỉ tự do khi còn dã man, chứ đã tiến lên văn minh rồi thì khó lập lại tự do. Lúc này những sự rối loạn có thể phá hủy quốc gia mà các cuộc cách mạng cũng không thể nào tái tạo quốc gia được; khi xiềng xích bị cách mạng phá tung thì quốc gia cũng đã rã rời từng mảng và không tồn tại nữa. Lúc này quốc gia cần có một người chủ, chứ không phải một người giải- phóng. Các dân tộc tự do hãy nhớ lấy châm ngôn này : "Người ta có thể giành lấy tự do, chứ không sao giờ vớt vát lại tự do đã mất" (ND).

Tuổi trẻ không phải là thời thơ ấu. Các quốc gia cũng như con người, đều có một thời trai trẻ, hoặc tuổi trưởng thành khi mà quốc gia đã biết khép mình vào luật. Nhưng sự trưởng thành của một dân tộc không phải lúc nào cũng dễ nhận ra và nếu người ta báo trước thì nó sẽ không đến đâu ! Một số dân tộc khi mới hình thành đã có khả năng tiếp thu trật tự; và có dân tộc qua hàng chục thế kỷ vẫn chưa tiếp thu nổi trật tự.Người Nga sẽ không bao giờ thực sự văn minh, vì họ đã từng vào nếp quá sớm. Vua Pierre (36) có tài bắt chước chứ không có tài sáng tạo. Người có tài năng phải sáng tạo và làm ra tất cả từ hai bàn tay không. Một vài việc vua Pierre làm cũng là tốt đẹp; nhưng phần lớn các việc khác thì đều bi lệch lạc đi cả. Ông ta chỉ thấy dân tộc mình dã man, mà không hề thấy rằng dân Nga chưa đủ chín muồi để tiến tới văn minh. Ông muốn khai hóa nước Nga, nhưng chỉ đưa nước Nga vào những cuộc chinh chiến. Ông muốn được như người Đức, người Anh, nhưng lại bắt đầu với người Nga. Người Nga vốn chưa được giỏi giang như thế, nhưng ông cứ khăng khăng thuyết phục họ rằng họ đã từng giỏi giang; cho nên ông đã ngăn cản thần dân không đạt được cái đích mà họ có thể đến. Thật giống như một anh gia sư người Pháp cố dạy cho học trò mình thành nhà thông thái, nhưng khi nó lớn lên nó lại chẳng ra quái gì. Đế quốc Nga muốn thống trị cả Châu âu, nhưng rồi nó lại chỉ thống trị mình nó. Người Tartares (37) đã từng chiếm được nước Nga và các nước Châu âu; quá trình này xem ra tất yếu. Hết thảy vua chúa Châu âu dường như đã cùng hành động nhịp nhàng để thúc đẩy nhanh quá trình xâm lược này.

9. TIẾP THEO

Thiên nhiên đã hạn định cấu trúc của con người bình thường. Vượt quá hạn định ấy, con người sẽ thành ông khổng lồ hoặc thằng lùn tí hon. Một quốc gia cũng vậy. Quá lớn thì khó cai trị; quá nhỏ thì khó duy trì.

Trong mọi cơ thể đều có một lực tối đa không nên vượt qua. Thường khi cơ thể chính trị lớn phình ra lại khó đạt tới cái lực tối đa ấy. Mối liên hệ xã hội càng được mở ra thì càng lỏng lẻo; và nói chung, tính theo tỉ lệ thì một nước nhỏ mạnh hơn một nước lớn.

Hàng nghìn lý lẽ chứng minh cho điều trên đây. Trước hết, khoảng cách lớn thì cai trị vất vả, giống như cầm cái sào để nâng một vật, sào càng dài vật ấy càng như nặng thêm. Các đơn vị thuộc nhiều mức độ khác nhau thì việc cai trị càng lủng củng. Dân trong mỗi thị trấn đóng góp cho thị trấn mình, lại còn phải đóng góp cho quận, tỉnh, rồi đóng góp cho các cấp trên tỉnh, cho lãnh địa vương hầu; càng lên cao nhu cầu càng lớn, đè lên đầu người dân đáng thương trên cùng đến Nhà nước tối cao đè lên tất cả. Bấy nhiêu gánh nặng tiếp theo nhau làm kiệt sức thần dân. Tưởng đâu nhiều cấp là hay, hóa ra lại dở, không bằng chỉ có một cấp. Còn những nguồn dự trữ phòng khi bất trắc , nếu nước lớn, khi cần đến, huy động cho được thì Nhà nước đã lâm nguy mất rồi. Chưa hết, Nước lớn thì Chính phủ khó mà sát sao, nhạy bén trong việc thi hành luật . pháp, ngăn chặn tội phạm, uốn nắn sai lầm, phòng ngừa nổi loạn ở các vùng xa xôi. Mặt khác, nước lớn thì dân chúng kém thân gần thủ lĩnh, vì họ ít khi tiếp xúc với thủ lĩnh. Tổ quốc đối với họ là cả một thế giới bao la. Đồng bào đối với họ phần đông là người xa lạ, những pháp lệnh như nhau khó mà phù bợp với các tỉnh khác nhau về phong tục và khí hậu. Luật lệ mỗi nơi một khác thì gây ra rối loạn, lẫn lộn giữa dân chúng các vùng. Họ sống dưới quyền chung của một thủ lĩnh, liên hệ nhau, đi lại, cưới hỏi nhau, nhưng luật lệ khác nhau thì họ chẳng còn biết cơ ngơi của mình tốt xấu ra làm sao nữa.

Trong một quốc gia rộng lớn, tài năng thường bị chôn vùi, đức hạnh bị xao nhãng, tội lỗi không bi trừng phạt. Người thì lắm hạng, chẳng hiểu biết nhau, mà cái guồng cai trị cứ quây họ vào làm một. Các thủ lĩnh bận công việc túi bụi, tự mình chẳng nhìn thấy gì nữa, phải để cho bọn thơ lại điều hành quốc gia, cuối cùng chỉ lo tìm biện pháp nắm quyền lực tối cao mà đã hết tháng hết năm, còn đâu thời gian để giải quyết công việc công cộng, còn đâu sức lực để chăm lo hạnh phúc nhân dân. Có chăng thì chỉ đủ sức để ngăn dân chúng đừng đòi hỏi quá nhiều. Cơ thể quá lớn so với cấu trúc bị trĩu xuống và bị đè bẹp dưới trọng lượng của chính nó.

Mặt khác, Nhà nước phải tạo cho mình một cơ sở để có được sự vững chắc, chống được những chán động, chế ngự được các lực phản kháng; vì mọi dân tộc đều có một lực li tâm , với lực này các dân tộc tác động lẫn nhau bằng các khuynh hướng bành trướng sang nước láng giềng, giống như những luồng xoáy của Deseartes (38). Các dân tộc yếu có nguy cơ bị nuốt chửng và không một dân tộc nào có thể bảo tồn trọn vẹn khi đặt mình vào với mọi dân tộc trong một thế cân bằng mà áp lực ở hai phía gần như tương đương nhau.

Có đủ lý do để tính chuyện bành trướng ra cũng như tính chuyện co lại tự vệ; và không phải nhà chính khách theo khuynh hướng tự vệ quốc gia là kém tài năng. Có thể nói chung rằng các lý do bành trướng mang tính chất ngoại diện và tương đối, phải phụ thuộc vào các lý do tự vệ có tính chất nội tại và tuyệt đối. Điều quan trọng đầu tiên là phải tìm cho ra một cấu trúc lành mạnh, và ta nên dựa vào tính năng động do một nền cai trị tốt đẹp nhiều hơn là dựa vào những tài nguyên do một lãnh thổ rộng lớn.

Ta còn thấy những quốc gia được cấu trúc dưới dạng tất yếu phải bành trướng, phải chinh phục các nước khác thì mới tồn tại được. Có lẽ họ rất tự hào về nhu cầu bành trướng khoái trá đó; nhưng nhu cầu này vừa tạo ra sự vĩ đại của họ lại vừa là lý do tất yếu đẩy họ đến suy vong.

10. TIẾP THEO

Người ta có thể đo một cơ thể chính tri bằng hai cách: bằng tầm rộng lãnh thổ và bằng số dân. Giữa hai cách đo này có mối liên hệ đáng để tìm ra độ lớn của quốc gia.

Con người làm nên quốc gia, và đất nuôi sống con người. Mối tương quan ở đây là đất đủ đề nuôi sống dân, và số dân vừa với khả năng cung ứng của đất. Qua tỉ lệ giữa đất và người có thể tìm ra mức tối đa về lực lượng của một nhóm dân chúng nhất định. Nếu đất quá rộng, việc trông nom sẽ tốn kém; trồng tỉa không hết, sản phẩm dư thừa; đó sẽ là nguyên nhân của các cuộc chiến tranh tự vệ. Nếu đất đai không đủ, Nhà nước phải dòm ngó sang đất láng giềng, đó sẽ là nguyên nhân các cuộc chiến tranh tấn công. Dân tộc nào ở vào vị trí chỉ sống bằng thương mại và chiến tranh lần hồi, thì bản thân dân tộc ấy là yếu; họ phải dựa vào láng giềng, trông chờ các biến cố, nên chỉ có được cuộc sống bấp bênh, ngắn ngủi hoặc là họ phải chinh phục nước ngoài để thay đổi tình thế, hoặc là họ bị người ta chinh phục và sống chẳng ra gì. Họ chỉ có thể tồn tại tự do nhờ nhỏ bé hoặc nhờ lớn mạnh.

Khó mà tính được một tỉ lệ cố định giữa đất đai và số dân như thế nào là thỏa đáng; vì chất đất, độ phì nhiêu, đặc tính sản phàm. Ảnh hưởng khí hậu mỗi nơi một khác; mà con người cũng chẳng giống nhau. Các xứ phì nhiêu dân tiêu thụ ít, các xứ cằn cỗi dân tiêu thụ nhiều lại phải nhìn đến số phụ nữ trong nước để lxem khả ,năng phát triển dân số ra sao. Nhà lập pháp căn cứ vào số dân để định đoạt tổ chức, không chỉ nhìn vào tình trạng hiện tại mà phải dự kiến cả dân số tương lai. Cuối cùng, có hàng nghìn trường hợp biến thiên về địa điểm cho phép hoặc bắt buộc người ta phải bao chiếm thêm những đất đai tưởng chừng không cần thiết.

Ở miền núi người ta cần khoảng rộng, vì sản phẩm tự nhiên như rừng cây, lũng cỏ đòi hỏi ít lao động; lại nhiều phụ nữ hơn ở đồng bằng độ dốc lớn, vùng trồng trọt chẳng có bao lăm.

Trái lại, ở miền ven biển, người ta thường sống chen chúc vì nghề đánh cá có thể bổ sung phần lớn sản phẩm trên mặt đất; người ta phải sống tập trung để đủ sức chống giặc biển; và cũng dễ di tản số dân thừa sang các thuộc địa khác.

Muôn xây dựng một dân tộc, ngoài các điều kiện lớn trên, phải thêm một điều kiện quyết định, không có nó thì mọi điều kiện khác đều vô nghĩa; đó là : con người phải được hưởng hòa bình và phồn vinh (ND)

Thời điểm chỉnh đốn quốc gia cũng như thời điểm chỉnh đốn một quân đội, chinh là lúc mà khả năng kháng cự của cơ thể quốc gia xuống thấp nhất, dễ bị phá hủy nhất. Trong tình trạng hết sức lộn xộn người ta kháng cự còn khá hơn là trong tình trạng giao thời, khi mỗi người chỉ nghĩ đến vị trí của mình mà không lo đến nguy cơ chung. Một cuộc chiến tranh, một cơn đói kém, một cuộc nổi loạn vào thời điểm khủng hoảng này thì quốc gia nhất đinh bị đảo lộn .

Cũng có những chính phủ ra đời trong cơn bão táp, nhưng đó là những chính phủ phá hoại quốc gia. Những kẻ thoán đoạt thường tạo ra hoặc chọn đúng thời cơ rối ren như thế, lợi dụng sự sợ hãi của mọi người, để thông qua các đạo luật phá hoại, mà dân chúng không thể tiếp nhận nếu họ ở trong trạng thái bình thản.

Cách chọn thời điểm xây dựng quốc gia là một điều rõ rệt nhất để phân biệt thủ thuật của nhà lập pháp chấn chỉnh với bọn thoán đoạt ranh ma.

Vậy dân tộc nào thì thích hợp với chế độ lập pháp ? Đó là những dân tộc đã có mối liên hệ tập hợp về nguồn gốc, về lợi quyền và công ước, nhưng chưa phải mang gông cùm của pháp luật bao giờ. Những dân tộc chưa có phong tục và tín ngưỡng bắt rễ quá sâu. Những dân tộc không sợ bi xâm lấn bất ngờ, không xung khắc với các dân tộc láng giêng, và đủ sức đương đầu với từng nước hoặc đủ sức giúp nước này chống lại sự xâm lấn của người khác. Những dân tộc mà mỗi thành viên đều có thể được mọi người biết đến, nhưng không một ai bị buộc phải gánh vác công việc nặng quá sức mình. Những dân tộc không cần phải nhờ đến dân tộc khác, và các dân tộc khác cũng không cần nhờ đến họ [9*]. Những dân tộc không nghèo cũng không giàu, có thể tự túc cho mình được. Cuối cùng là những dân tộc kết hợp được tính cứng vững của một dân tộc lâu đời với tính dễ bảo của một dân tộc mới mẻ.

Trong công trình lập pháp, cái khó ở chỗ xây dựng thì ít mà ở chỗ phá hủy thì nhiều hơn. Điều làm cho các nhà lập pháp ít khi thành công là họ khó tìm ra cái giản dị của thiên nhiên gắn liền với các nhu cầu của xã hội. Thật khó mà qui tụ tất cả các điều kiện nói trên; vì vậy rất ít thấy những nhà nước thật hoàn chỉnh.

Ở châu Âu còn có một xứ sở đủ điều kiện lập pháp, đó là xứ Corse (39) . Nhân dân xứ này đã biết giành lại tự do với giá cao và bằng tinh thần kiên trì. Họ đã xứng đáng có được một người lãnh đạo sáng suốt bày vẽ cho họ bảo vệ tự do. Tôi cảm thấy được rằng một ngày kia hòn đảo nhỏ bẻ này sẽ làm cho châu Âu kinh ngạc.

11. CÁC HỆ THỐNG LẬP PHÁP KHÁC NHAU

Nếu tìm xem điều tốt nhất cho tất cả mọi người, và đỉnh cao nhất của hệ thống lập pháp là cái gì, ta sẽ thấy điều đó qui gọn vào hai mục tiêu :Tự do và bình đẳng.
Tự do: Vì cá nhân bị mất tự do bao nhiêu thì cơ thể quốc gia giảm sút sức lực bấy nhiẽu.
Bình đẳng. Vì không có bình đẳng thì không thể nào có tự do được.

Tôi đă nói tự do đây cbỉ là tự do dân sự, còn về bình đẳng thì không nên hiểu là mọi mức độ quyền lực về tài sản đều phải tuyệt đối ngang nhau. Theo tôi, quyền lực phải đứng trên mọi bạo lực. Quyền lực chỉ thể hiện theo cấp bậc và theo luật pháp; còn tài sản thời không nên để một công dân nào giàu đến mức có thể mua một công dân khác; và không một công dân nào nghèo đến nỗi phải tự bán mình [10*].

Muốn thế thì phía các người giàu hạn chế của cải và trái khoản, phía người nghèo nên hạn chế tính tằn tiện và lòng thèm khát.

Sự bình đẳng này là điều tưởng tượng hão huyền không thể có trong thực tế.Nhưng nếu không tránh được sự lạm dụng thì ta có nên tìm cách điều tiết và hạn chế lạm dụng không ? Chính là vì lực của các vật luôn luôn có khuynh hướng phá bỏ sự đồng đều, còn lực của luật pháp luôn luôn nhằm bảo trì sự đồng đều (ND) .

Nhưng các mục tiêu chung nói trên của một thể chế tốt đẹp là Tự do và Bình đẳng sẽ tùy theo hoàn cảnh mỗi nước mà đổi khác do tình huống quốc gia và tính cách dân chúng mỗi nước không giống nhau. Mỗi dân tộc sẽ tự chọn lấy thể chế thích hợp riêng của mình.

Nếu nước các bạn quá hẹp, dân sống chen chúc, đất đai cằn cỗi, thì các bạn nên làm công nghiệp hoặc nghệ thuật để lấy sản phẩm vãn hóa và kỹ nghệ đổi lấy lương thực thực phẩm mà bạn thiếu. Trái lại, nếu các bạn có những cánh đồng phì nhiêu, đất đai rộng rãi nhưng dân cư thưa thớt, thì các bạn nên chăm lo nông nghiệp, khiến dân số tăng nhanh; mặt khác nên lánh xa nghệ thuật, là cái nghề chỉ qui tụ một ít dân tộc vào một vài điểm và làm cho quốc gia thưa thớt dân cư[11*].

Ví phỏng nước các bạn có những bờ biển kéo đài và thuận tiện, các bạn hãy chuyên việc đóng tàu, chăm nghề buôn bán và hàng hải để có một quốc gia xán lạn, tuy là ngắn ngủi.

Ví phỏng bờ biển nước bạn toàn là mỏm đá lô nhô không khai thác gì được, thì các bạn hãy chịu sống hoang dã, ăn cá để sống, các bạn sẽ được yên tĩnh và chắc chắn là hạnh phúc.

Tóm lại, ngoài những phương châm chung mà tất cả đều phải theo, mỗi dân tộc có một sự nghiệp riêng, nó quy định nên cách sống riêng và khiến cho chế độ lập pháp phải phù hợp với cách sồng đó.

Chính vì vậy mà ngày xưa dân tộc Hébreux cũng như ngày nay dân tộc Ả Rập lấy tôn giáo làm một mục tiêu chính. Dân Athène chuộng văn học, dân Carthage và Tyr chuộng buôn bán, dân Rhodes thạo nghề hàng hải, người Sparte thạo chiến chinh, người La Mã chú trọng đức hạnh. Tác giả sách "Tinh thần của các luật pháp" (40) đã đưa ra hàng loạt ví dụ chứng minh nhà lập pháp phải có nghệ thuật như thế nào để hướng thể chế đúng theo mục tiêu của nó.

Điều làm cho thể chế của một nước vững vàng, bền chặt thật sự chính là nó phải luôn luôn tôn trọng sự thỏa đáng, luôn luôn làm cho luật pháp và các quan hệ tự nhiên gặp nhau một cách hài hòa trên những điểm nhất định. Luật pháp đặt ra chỉ là để bảo đảm, hỗ trợ và điều chỉnh những quan hệ tự nhiên. Nếu nhà lập pháp nhận thức sai và các mục tiêu, nắm lấy một thứ nguyên tắc trái với nguyên tác tự nhiên của sự vật, khiến cho các mục tiêu chồng chéo nhau, cái thì nhằm vào phục tùng, cái thì nhằm vào tự do; mục tiêu này nhằm vào sự giàu có, mục tiêu kia lại nhằm tăng dân số, cái này nhằm vào hòa bình, cái kia nhằm vào chinh phạt... thì chúng ta sẽ thấy pháp luật mặc nhiên bị suy yếu, thể chế bị hư hỏng, nước nhà không ngừng chao đảo cho đến khi bị đổi thay hoặc bại hoại; và khi đó quy luật tự nhiên không ai cưỡng nổi sẽ ngự trị hoàn toàn.

12. PHÂN LOẠI CÁC LUẬT

Muốn xếp đặt cái tổng thể, làm cho các sự vật có được một hình thức tốt nhất, thì cần phải xem xét nhiều mối quan hệ khác nhau.

1) Trước tiên phải xem xét hoạt động của toàn bộ cơ thể tác động vào toàn bộ cơ thể như thế nào; tức là xét quan hệ giữa cái chung với cái chung, giữa cơ quan quyền lực tối cao với toàn bộ quốc gia. Mối quan hệ này, bao gồm những quan hệ của các yếu tố trung gian mà chúng ta sẽ xem xét sau.

Các luật điều chỉnh mối quan hệ chung nói trên gọi là luật chính trị, cũng gọi là luật cơ bản. Nếu luật cơ bản là sáng suốt, trong mỗi nước chỉ có thể có một cách duy nhất để sắp xếp mối quan hệ chung, thì nhân dân là người tìm ra cách sắp xếp đó nhất định sẽ ủng hộ luật cơ bản.

Nhưng nếu trật tự chung được sắp xếp tồi tệ thì ai còn thừa nhận các điếu sắp xếp ấy là luật cơ bản nữa!

Vả lại, vì mọi lý do, nhân dân luôn luôn có quyền thay đổi pháp luật, ngay cả những điều luật tốt cũng vậy. Có ai cấm một người muốn tự làm đau mình.

2) Mối quan hệ thứ hai là quan hệ giữa các thành viên với nhau, hoặc quan hệ giữa các thành viên với toàn bộ cơ thể xã hội. Mối quan hệ này có thể xem là rất nhỏ mà cũng có thể xem là rất lớn, bởi lẽ mỗi một công dân có thể là hoàn toàn tự do đốii với các công dân khác, mà cũng có thể là hoàn toàn phụ thuộc vào thành bang. Cả hai trạng thái đó đều do những biện pháp như nhau tạo nên; vì chỉ có sức mạnh của Nhà nước làm nên tự do của các thành viên trong quốc gia. Từ mối quan hệ thứ hai này nảy sinh các luật dân sự.

3) Còn có một loại quan hệ thứ ba là quan hệ giữa con người và luật pháp. Khi có kẻ không chấp hành nghĩa vụ, cưỡng lại luật pháp thì phải thiết lập ra luật hình sự. Đây là một thứ luật đặc biệt, có ý nghĩa là sự trừng phạt của mọi người đối với kẻ vi phạm.

4) Gắn liền với ba loại luật nói trên, có một loại thứ tư quan trọng hơn cả. Luật này không khắc lên đá, lên đồng, mà khắc vào lòng công dân, tạo nên hiến pbáp chân chính của quốc gia. Luật này mỗi ngày lại có thêm sức mới; khi các thứ luật khác đâ già cỗi hoặc tắt ngấm thì luật này thắp cho nó lại sáng lên, hoặc bổ sung, thay thế nó duy trì cả dân tộc trong tinh thần thể chế, lẳng lặng đưa sức mạnh của thói quen thay vào sức mạnh của quyền uy. Luật thứ tư này chính là phong tục tập quán, nói chung là dư luận nhân dân.

Đây là bộ phận mà chính sách của ta không biết đến, nhưng mọi cái khác đều phải tùy thuộc vào nó. Đây là bộ phận mà nhà lập pháp lớn phải thầm lặng quan tâm nghiên cứu trong khi họ tỏ ra dường như chỉ hạn chế trong các điều luật lệ cụ thể.

Luật pháp cụ thế chỉ là cái đỉnh vòm của cái cửa cổng, phong tục tập quán phát sinh muộn hơn, tạo thành cái khóa cửa không gì có thể lay chuyển nổi.

Trong bốn loại luật pháp nói trên, chủ đề nghiên cứu của tôi chỉ liên quan đến loại thứ nhất: các luật chính trị, luật cấu tạo nên hình thức cơ bản của nền cai trị quốc gia.

[Chương trước]   [Mục lục]   [Chương tiếp theo]


Chú thích

[1*].Muốn cho một ý chí trờ thành ý chí chung, không nhất thiết lúc nào cũng phải tuyệt đối trăm người như một; nhưng điều cần thiết là mọi tiếng nói đêu được đếm xỉa tới. Nếu loại bỏ dù là một cách hình thúc, một sồ tiểng nói nào đó, thì ý chí chung sẽ bị tan rã.

[2*]. Hầu tuớc d'Argenson nói: Mỗi lợi ích có nguyên tắc riêng của nó. Hai lợi ích riêng hòa hợp được với nhau là do nó đối lập với lợi ích của người thứ ba. Có thể nói thêm rằng sự ăn ý của tất cả tạo thành cái đối lập với ý chí của mỗi một người. Nếu không có tí gì là lợi ích khác biệt nhau, người ta sẽ nhìn ra ngay lợi ích chung, không vướng một trở ngại nào; mọi việc sẽ tự nó trôi chảy; lúc đó chính trị thôi không còn là một nghệ thuật nũa.

[3*]. Machiavel nói: "Verss cose e che alcumi divisioni nuocono alle republiche es alcune giovano; quellê nuocono che sono delle song delle settec da partigieni aocompagnéte, quelle giovano che senze; sezza partigieni, simatengono. Non potendo adunque provedere un fandatore d'une republics che non siano nimicige in quella, ha da proveder almeno che non vi sieno sette. (Hist. Florent. Uy.VII) - Câu La tinh trên do tác giả chú thích, có nghĩa là: "Tất nhiên, có những cách phân chia gây hại và những cách phân chia có ích cho nền cộng hòa. Cách phân chia gây hại là phân chia bè đảng. Do dó người sáng lập nền cộng hòa muốn tránh mối nguy hại thì phải tìm hết cảnh bảo đảm cho trong nước không sợ bè đảng (Xem "Linh sử Florentis", quyển 7).

[4*]. Xin các bạn đọc chăm chú đừng vội phê phán tôi là trước sau mâu thuẫn. Do ngôn ngữ của ta còn nghèo, tôi không tránh được sự lúng túng trong thuật ngữ. Xin hãy chờxem đoạn sau.

[5*].Từ ngữ "Cộng hòa", theo tôi hiểu, không có nghĩa quí tộc hay dân chủ nói chung, mà nói chung là tất cả những chính phủ dựa vào ý chí chung, dựa theo luật. Chớ lầm lẫn chính phủ với cơ quan quyền lực tối cao: Chính phủ chỉ là các bộ. Như thế thì một nuớc quân chủ cũng có thể theo chế độ cộng hòa. Vấn đề này sê được làm sáng tỏ trong quyển sau.

[6*]. Một dân tộc chỉ trở nên nổi tiếng khi cơ quan lập pháp của dân tộc ấy bắt đầu suy thoái. Người ta không rõ cơ chế lập pháp của Lycurgue (xem chú thích ở 21 - ND) đưa lại hạnh phúc cho nhân dân thành bang Sperte trong vòng mấy thế kỷ nó mới bị đặt thành vấn đề trong các thành bang khác ở Hy Lạp.

[7*]. Nếu cho rằng Calvin (27) chỉ là một nhà thần học thì chưa hiểu dúng tài năng rộng lớn của ông. Ông đã góp nhiều công lao trong việc soạn thảo các pháp lệnh sáng suốt. Trong tôn giáo của ta ngày nay được dựa vào một số điều cách mạng như tình yêu tồ quốc, yêu tự do, mãi mãi soi sáng lòng ta, chính là nhờ ở con người vĩ dại này.

[8*]. Machiavel nói: "Eversmente mai non fu alcuno ordinatore di leggi straordinane in un popomo, che non ricorresse a Dio, perche altrimeuti non sarrebero accettate; perche sono molyi beni conosciuti da uno prudente, i quali non hanno in e regguoni de potergli persusdere ad altrui". (Discorai sopre fito Livis. tib.I, CXL (Câu latinh trên nghĩa là:" Thật ra không có một nhà làm luật đặc cách của bắt cứ dân tộc nào mà không chạy tới cầu khẩn Trời. Không làm thế thì họ không được ohầp nhận. Có nhiều phước lành mà các thánh hiểu rõ, nhưng người thường không tin vào đó được vì nó không hiển nhiên (Lời giảng trong tập kỷ I - Tito Uvo. Quyển I, chương 11) .

[9*]. Nếu hai nước gần nhau mà nuớc A phải nhờ vả nước B thì tình thế rất gay go cho nước A và rất nguy hiểm cho nước B. Mọi quốc gia thông minh trong cảnh ngộ dó sẽ cố sức giúp cho nước A mau thoát khối tình trạng phụ thuộc. Nước cộng hoà Thlascala chịu cảnh nô lệ trong đế quốc Mexique, thà chịu ăn nhạt chứ không mua muối của người Mexique, ngay cả cho không cũng không lấy. Các nhà thông thái trong dân tộc Thlasaca thầy rõ cái bẫy che giấu trong việc cho muối thoải mái ấy. Họ giữ được tự do; và chính là cái quốc gia nhỏ bé ấy, nằm trong đế quốc to lớn kia đã trở thành công cụ làm suy vong đế quốc Mexique.

[10*]. Muốn cho Nhà nước có sức chịu đựng, hai cực giàu nghèo nên xích lại nhau càng gần càng tốt, để khỏi phiền toái vì hai hiện tượng tự nhiên (giàu nghèo) này vẫn không thể tách rời nhau, đều trở ngại cho phúc lợi xã hội. Từ phía giàu nảy sinh bọn tội phạm của chuyên chế; từ phía nghèo nảy sinh các nhà chuyên chế. Việc buôn bán quyền tự do công cộng luôn luôn diễn ra giữa hai loại người này. Một bên mua tự do, bên kia bán tự do.

[11*]. Hầu tước d'Argenson nói: Một vài ngành ngoại thương chỉ đem lại lợi ích giả tạo cho quốc gia; nó làm giàu cho một số cá nhân, hoặc một số thành thị, còn toàn bộ quốc gia chẳng được gì, và dàn chúng cũng chỉ như cũ thôi.


[Chương trước]   [Mục lục]   [Chương sau]