F. Engels
T́nh cảnh giai cấp công nhân Anh

NHỮNG NGÀNH LAO ĐỘNG KHÁC

Ta buộc phải dừng lại khá lâu để mô tả chế độ công xưởng, v́ nó là sản vật hoàn toàn mới của thời đại công nghiệp. Với công nhân ở các ngành khác, th́ có thể nói ngắn hơn nhiều; v́ t́nh cảnh của giai cấp vô sản công nghiệp nói chung, hay là chế độ công xưởng nói riêng, vẫn phù hợp hoàn toàn hoặc phần nào, với t́nh h́nh của những ngành ấy. Do đó, ta chỉ cần t́m hiểu xem chế độ công xưởng đă thâm nhập vào các ngành khác tới mức nào, và mỗi ngành ấy có các đặc điểm riêng ǵ.

Bốn ngành lao động chịu sự kiểm soát của đạo luật về công xưởng đều thuộc lĩnh vực sản xuất vật liệu may mặc. Bây giờ, tốt nhất là bắt đầu từ các công nhân nhận nguyên liệu từ các công xưởng của bốn ngành ấy. Đầu tiên là những công nhân dệt kim ở Nottingham, Derby và Leicester. Khi nhắc tới họ, "Báo cáo của tiểu ban điều tra về lao động trẻ em" nói: v́ ngày lao động kéo quá dài (do tiền công thấp), cộng thêm việc phải ngồi suốt ngày và mắt luôn phải nh́n chăm chú (do tính chất của công việc) nên toàn bộ cơ thể đều suy yếu, nhất là thị lực. Buổi tối, nếu không có ánh sáng rất mạnh th́ không thể làm việc, do đó công nhân thường dùng các quả cầu pha lê để tập trung ánh sáng, việc đó rất hại mắt. Hầu hết công nhân đến bốn mươi tuổi đă phải đeo kính. Trẻ em th́ chuyên đánh ống chỉ và khâu viền, ốm đau thường xuyên và vóc người rất yếu. Từ 6-8 tuổi, chúng đă phải làm mỗi ngày 10-12 giờ, trong những pḥng nhỏ hẹp, ngột ngạt. Rất nhiều trẻ bị công việc làm cho yếu ớt, đến nỗi không làm nổi những công việc trong nhà b́nh thường nhất; c̣n ít tuổi mà đă phải đeo kính, v́ bị cận thị. Các ủy viên thấy khá nhiều trẻ có triệu chứng tràng nhạc; c̣n chủ xưởng thường không chịu thuê những thiếu nữ đă từng làm việc này, viện cớ là sức khỏe của họ kém quá. Báo cáo gọi t́nh cảnh của bọn trẻ ấy là "điều sỉ nhục với một nước theo Thiên chúa giáo" và hi vọng là công việc của chúng sẽ được pháp luật bảo hộ (Grainger, "Báo cáo", phụ lục, phần I, tr. F 15, §§ 132-142). Báo cáo về công xưởng nói thêm: ở Leicester, lương của công nhân dệt kim là thấp nhất. Mỗi ngày họ phải làm 16-18 giờ, mà mỗi tuần chỉ được 6 shilling, phải rất cố gắng mới kiếm nổi 7 shilling. Trước kia họ kiếm được 20-21 shilling, nhưng việc sử dụng máy dệt cỡ lớn đă đánh sụt tiền lương của họ; đại đa số công nhân c̣n làm việc với các máy dệt giản đơn cũ, phải cạnh tranh vất vả với các máy đă được cải tiến. Như vậy, ở đây, mỗi bước tiến của công nghệ là một bước lùi của t́nh cảnh công nhân! Power, ủy viên của tiểu ban nói: dù sao đi nữa, các công nhân dệt kim vẫn thấy tự hào v́ họ c̣n được tự do; bữa ăn, giấc ngủ, công việc của họ không bị tiếng chuông công xưởng chi phối. T́nh h́nh tiền lương hiện tại của họ không tốt hơn chút nào so với năm 1833, khi tiểu ban về công xưởng viết báo cáo. Đó là do sự cạnh tranh của các công nhân dệt kim Sachsen, những người đang sống trong cảnh bữa đói bữa no, gây ra. Sự cạnh tranh ấy đă đánh bại người Anh, không chỉ trên tất cả các thị trường nước ngoài, mà c̣n ngay tại thị trường nước Anh, xét về phương diện hàng dệt loại thường. Các công nhân dệt kim Đức yêu nước lẽ nào lại không vui mừng, khi thấy rằng việc ḿnh chịu đói cũng có thể làm cho những người anh em ở nước Anh không có cái ăn, hay sao? Lẽ nào họ lại không nhịn đói một cách tự hào và vui vẻ, khi danh dự của nước Đức yêu cầu họ chỉ được ăn lửng dạ, dành niềm vinh quang lớn hơn cho công nghiệp Đức, hay sao? Ôi, cạnh tranh và "ganh đua giữa các nước" thật đẹp đẽ biết chừng nào! Tờ "Morning Chronicle", lại là tờ báo của Đảng tự do, của giai cấp tư sản par excellence1; tháng Chạp 1843, đă đăng mấy bức thư của một công nhân dệt kim ở Hinckley, mô tả t́nh cảnh của các đồng nghiệp của ḿnh. Anh ta nói tới 50 gia đ́nh, tất cả 321 người, chỉ sống nhờ vào 109 máy dệt, mỗi máy b́nh quân mỗi tuần kiếm được 5 shilling 2 penny, mỗi gia đ́nh kiếm được b́nh quân mỗi tuần 11 shilling 4 penny. Trong đó, tiền nhà, tiền thuê máy, tiền than, dầu đèn, xà pḥng, kim dệt, tổng cộng đă là 5 shilling 10 penny rồi; mỗi người một ngày chỉ có 1 penny rưỡi dùng vào việc ăn uống, c̣n may mặc th́ chẳng có đồng nào.

Anh công nhân dệt kim ấy viết: "Từ trước đến nay, chưa hề có ai trông thấy, nghe thấy, hay hiểu được một nửa nỗi khốn khổ mà những con người đáng thương ấy phải chịu đựng".

Họ hoàn toàn không có nệm giường; nếu có, cũng chỉ đủ cho một nửa số người. Trẻ con quần áo rách bươm, chân đất, chạy đi chạy lại. Đàn ông sụt sùi nước mắt, nói rằng: đă từ lâu lắm rồi họ không được ăn thịt, họ hầu như đă quên mất mùi vị thịt rồi. Cuối cùng, một số người làm việc cả vào chủ nhật, dù dư luận không dung thứ điều ấy, c̣n tiếng máy dệt vang xa khắp cả khu xung quanh.

Một người trong số họ nói: "Các người cứ nh́n con cái tôi th́ sẽ hiểu. Nghèo đói buộc tôi phải làm vậy. Tôi không thể giương mắt nh́n con ḿnh kêu đói mà không dùng biện pháp lương thiện cuối cùng, để kiếm miếng bánh. Thứ hai trước, tôi dậy từ hai giờ sáng, làm việc đến gần nửa đêm; những ngày khác th́ tôi làm từ 6 giờ sáng đến tận 11-12 giờ khuya. Nhưng tôi không chịu đựng nổi nữa, tôi không muốn tự ḿnh chui vào quan tài. V́ vậy, mỗi tối, tôi chỉ làm việc đến 10 giờ; vào chủ nhật, tôi làm bù lại số thời gian đă mất đó".

Từ năm 1833 trở đi, ở Leicester, Derby, và Nottingham, tiền lương chưa có nơi nào tăng cả; tệ nhất là ở Leicester, v́ truck-system vẫn c̣n phổ biến, như đă nói ở trên. V́ thế không có ǵ lạ, mỗi khi công nhân vùng dậy, th́ công nhân dệt kim ở đó đều tham gia rất tích cực; v́ đứng máy chủ yếu là nam giới, nên việc đó càng mạnh mẽ và nhiệt t́nh hơn.

Vùng công nhân dệt kim ở cũng là trung tâm của ngành sản xuất đăng-ten. Trong ba tỉnh nói trên, có tất cả 2760 máy đăng-ten; tất cả các miền khác của nước Anh th́ chỉ có 786 máy. Do phân công lao động chặt chẽ, việc sản xuất đăng-ten trở nên vô cùng phức tạp, chia thành rất nhiều ngành nhỏ. Đầu tiên là cuộn chỉ vào ống, việc này là của những thiếu nữ (winder) 14 tuổi trở lên; sau đó đem các ống đó lắp vào máy, rồi luồn chỉ qua các lỗ nhỏ (mỗi máy b́nh quân có chừng 1800 lỗ nhỏ như thế), rồi lại kéo sợi chỉ đến chỗ qui định, việc này là của các em trai (threader) 8 tuổi trở lên; sau đó mới đến lượt công nhân sản xuất đăng-ten. Đăng-ten lấy từ máy ra là những tấm dài, rộng, do các em rất bé rút các sợi chỉ nối liền, chia tấm đăng-ten ra thành từng mảnh riêng; việc ấy gọi là running, hay drawing lace, những em bé ấy được gọi là lace-runner. Sau đó là đăng-ten thành phẩm, có thể đem bán. Winder (thợ đánh ống) cũng như threader (thợ luồn chỉ) đều không có giờ làm nhất định, mỗi khi chỉ trên máy hết là cần tới họ; v́ công việc kéo dài suốt đêm, nên họ có thể bị gọi đến nhà máy hoặc phân xưởng của thợ đăng-ten bất ḱ lúc nào. Công việc không qui củ, thường phải làm đêm, dẫn đến lối sống không b́nh thường; tất cả những cái ấy gây ra rất nhiều tác hại về thể xác và tinh thần, nhất là việc quan hệ nam nữ hỗn loạn từ tuổi nhỏ, như các nhân chứng đă nhất trí vạch ra. Công việc c̣n rất hại cho mắt: dù chưa phát hiện bệnh kinh niên phổ biến ở các thợ luồn chỉ, nhưng bệnh sưng mắt th́ rất thường gặp; việc luồn chỉ dễ gây đau mắt, chảy nước mắt và mờ mắt một thời gian v.v. C̣n về các thợ đánh ống, th́ người ta đă xác nhận là công việc của họ rất hại cho thị lực; gây ra viêm giác mạc thường xuyên, và thường bị đục thủy tinh thể. Công việc của bản thân các thợ đăng-ten rất nặng nhọc, v́ các máy được chế ra ngày càng lớn; các máy hiện nay hầu như đều cần ba công nhân nam điều khiển; họ luân phiên nhau, cứ bốn giờ lại đổi một lần. Máy chạy suốt 24 giờ, vậy là mỗi người làm 8 giờ. Từ đó có thể thấy v́ sao các thợ đánh ống và thợ luồn chỉ thường phải làm đêm: không thể để máy dừng lâu quá. Để luồn chỉ qua 1800 lỗ, cần ba đứa trẻ làm trong hai giờ. Có một số máy chạy bằng hơi nước, nó gạt bỏ lao động của đàn ông. "Báo cáo của Tiểu ban điều tra về lao động trẻ em" th́ chỉ nói đến việc gọi trẻ em đến làm ở "xưởng đăng-ten", do đó có thể cho rằng: hiện nay, hoặc là các công nhân làm đăng-ten đă bị chuyển đến các xưởng lớn, hoặc là sức hơi nước đă được dùng rộng răi để sản xuất đăng-ten. Hai việc đó đều cho thấy là chế độ công xưởng đă được mở rộng thêm. Hại cho sức khỏe nhất là công việc của lace-runner, rút chỉ từ những tấm đăng-ten; đó phần lớn là các bé bẩy tuổi, thậm chí 4-5 tuổi. Ủy viên Grainger c̣n thấy một đứa bé hai tuổi làm việc ấy. Phải chăm chú nh́n xem, trong đường thêu đăng-ten chằng chịt, sợi nào đó cần dùng kim khều ra; việc đó đặc biệt hại mắt, nhất là khi thường phải làm liên tục 14-16 giờ. Như vậy, trong trường hợp tốt nhất, họ cũng bị cận thị nặng; c̣n trong trường hợp xấu nhất, rất thường thấy, th́ họ bị mù vĩnh viễn, do đục thủy tinh thể. Ngoài ra, v́ thường phải làm việc ở tư thế cúi, nên khi trẻ lớn lên th́ cơ thể rất yếu, ngực lép, và v́ tiêu hoá không tốt mà bị tràng nhạc; các em nữ rất thường bị rối loạn chức năng của cơ quan sinh dục, cột sống cong vẹo cũng phổ biến, thế nên "cứ nh́n dáng đi là có thể nhận ra em nào làm lace-runner". Việc thêu đăng-ten, với mắt cũng như với toàn cơ thể, đều có hậu quả như thế. Những chuyên gia y tế làm chứng đă nhất trí rằng: sức khỏe của tất cả trẻ em chuyên sản xuất đăng-ten đă bị tổn hại nặng nề: chúng đều xanh xao, yếu ớt, dễ bị bệnh; chúng thấp bé hơn hẳn so với tuổi; sức đề kháng cũng kém hẳn các trẻ khác. Bệnh tật mà chúng thường bị là suy nhược toàn thân, hay bị ngất; đau ở đầu, hai bên sườn, lưng, thắt lưng; tim đập mạnh, nôn ọe, chán ăn, cột sống cong vẹo, tràng nhạc và lao phổi. Công việc ấy luôn hủy hoại cơ thể phụ nữ đặc biệt nghiêm trọng; có rất nhiều ư kiến về việc họ bị thiếu máu, khó đẻ và sẩy thai (Grainger, nhiều chỗ trong "Báo cáo"). Chính Grainger đă báo cáo với tiểu ban điều tra về lao động trẻ em rằng: lũ trẻ thường mặc đồ tồi tàn, rách rưới, ăn uống rất kém, phần lớn chỉ có bánh ḿ và nước chè, thường mấy tháng liền không được ăn thịt; về t́nh h́nh đạo đức của trẻ th́ ông nói như sau:

"Tất cả cư dân Nottingham: cảnh sát, tu sĩ, chủ xưởng, công nhân và cha mẹ của các đứa trẻ ấy, đều nhất trí rằng: chế độ lao động hiện nay là miếng đất tốt nhất để sinh ra hiện tượng đạo đức suy đồi. Thợ luồn chỉ phần lớn là con trai, thợ đánh ống phần lớn là con gái, chúng thường bị gọi cùng một lúc đến công xưởng giữa đêm khuya; v́ cha mẹ chúng không thể biết là chúng phải làm ở đó bao lâu, nên chúng có cơ hội rất tốt để cùng nhau làm tṛ bậy bạ, xong việc th́ rủ nhau đi chơi. T́nh h́nh ấy đă góp phần rất lớn làm cho hiện tượng đạo đức bại hoại phát triển; mà theo ư kiến của mọi người, th́ ở Nottingham, hiện tượng ấy đă đạt tới mức hết sức đáng sợ. Bên cạnh những tác hại trực tiếp đối với trẻ, hiện tượng hết sức phi tự nhiên ấy c̣n phá hoại sự an ninh và nền nếp trong gia đ́nh của các trẻ đó".

Một ngành sản xuất đăng-ten khác, móc đăng-ten bằng que, phát triển ở các vùng nông nghiệp: Northampton, Oxford, Bedford, Buckingham; chủ yếu là trẻ em và thiếu niên làm, tất cả chúng đều phàn nàn về ăn uống kham khổ, rất ít khi có thịt. Bản thân công việc th́ rất hại cho sức khỏe. Chúng phải làm trong các pḥng nhỏ hẹp, bí hơi, ẩm thấp; luôn phải ngồi cúi gập trên bộ que móc. Để đỡ cơ thể của ḿnh trong tư thế g̣ bó ấy, các em nữ đều phải mặc áo lót có độn một tấm gỗ; v́ chúng thường bắt đầu làm việc từ tuổi rất nhỏ, lúc đó xương c̣n rất mềm, nên loại áo lót ấy đă làm cho xương lồng ngực và xương sườn hoàn toàn bị sai vị trí, dẫn đến lép ngực. V́ không khí chỗ làm việc rất xấu, và khi làm việc lại phải luôn ngồi, nên đại đa số những thiếu nữ ấy đều bị rối loạn tiêu hóa; và sau khi chịu đựng sự giày ṿ ác nghiệt (severest) của bệnh ấy, th́ chúng chết v́ lao phổi. Chúng hầu như không được giáo dục chút nào, về mặt đạo đức lại càng không, chúng c̣n thích làm điệu; do đó t́nh h́nh đạo đức của chúng rất kém, nạn mại dâm trong chúng hầu như đă trở thành một bệnh dịch ("Báo cáo của tiểu ban điều tra về lao động trẻ em", báo cáo của Burns).

Đó là cái giá mà xă hội đă phải trả để cho các bà tư sản ăn diện được hưởng cái thú dùng đăng-ten! Đó chẳng phải là cái giá rất rẻ sao? Chỉ có vài ngh́n công nhân bị hỏng mắt, một vài đứa con gái của những người vô sản bị lao phổi; một thế hệ dân đen bị suy yếu, thế hệ đó lại truyền cái suy yếu ấy cho con cháu của nó, cũng vẫn là dân đen thôi; điều đó có quan trọng ǵ? Không, chẳng quan trọng ǵ! Giai cấp tư sản Anh của chúng ta thờ ơ vứt báo cáo của tiểu ban điều tra của chính phủ ra một bên, và tiếp tục dùng đăng-ten để trang sức cho vợ con như cũ. Sự phớt tỉnh của người tư sản Anh thật là tuyệt.

Một số lớn công nhân Lancashire, Derbyshire và miền Tây Scotland làm việc ở các xưởng in hoa. Trong nền công nghiệp nước Anh, không có ngành nào mà sự phát triển kĩ thuật lại đạt được kết quả rực rỡ như vậy, nhưng cũng không có ngành nào mà sự phát triển ấy lại làm cho t́nh cảnh của công nhân tồi tệ đến thế. Việc sử dụng hơi nước để quay các trục lăn có khắc hoa, và việc t́m ra cách để trục lăn đó in một lần được 4-6 màu, đă hoàn toàn gạt bỏ lao động thủ công; y như việc sử dụng máy móc đă gạt bỏ lao động thủ công khỏi công nghiệp dệt và kéo sợi bông. Nhưng số công nhân bị những phát minh mới ấy gạt bỏ ở các công xưởng in hoa so với ở các công xưởng dệt bông th́ c̣n nhiều gấp bội. Ở đây, một người lớn dùng máy, cùng với một đứa trẻ giúp việc, có thể ngang với 200 công nhân làm việc bằng tay. Một máy mỗi phút có thể làm ra 28 yard (80 foot) vải hoa. Kết quả là t́nh cảnh của công nhân in hoa rất tệ. Trong đơn thỉnh cầu của họ gửi Hạ viện có nói: năm 1842, Lancashire, Derbyshire và Chester đă sản xuất 11 triệu tấm vải hoa; trong đó, 10 vạn tấm hoàn toàn in bằng tay, 90 vạn tấm được in một phần bằng máy và phần khác bằng tay, 10 triệu tấm hoàn toàn in bằng máy; với từ 1-6 màu in. V́ đa số máy móc gần đây mới được áp dụng, lại luôn được cải tiến, nên số công nhân in hoa thủ công luôn nhiều hơn mức đ̣i hỏi của sản xuất; trong đó, rất nhiều người (trong đơn nói rơ là 1/4 tổng số) bị đói v́ hoàn toàn không có việc làm, số c̣n lại th́ b́nh quân mỗi tuần cũng chỉ 1-2 ngày là có việc, nhiều nhất là ba ngày, tiền lương lại thấp. Leach xác nhận: trong một công xưởng in hoa (Deeply Dale, gần Bury, ở Lancashire), công nhân in hoa thủ công b́nh quân kiếm được không quá 5 shilling một tuần ("Những sự thực không thể bác bỏ", tr. 47); ông cũng biết rất chắc rằng, tiền lương của công nhân in hoa bằng máy khá cao. Vậy là ngành in hoa đă hoàn toàn gia nhập chế độ công xưởng, nhưng không phải chịu những hạn chế của pháp luật đối với chế độ ấy. Ngành ấy lại sản xuất những hàng thời trang, nên không có thời gian lao động cố định. Khi hàng đặt ít th́ họ chỉ làm nửa th́ giờ; khi có mẫu hàng nào được hoan nghênh, bán chạy, th́ công xưởng làm việc tới 10-12 giờ đêm, có khi suốt đêm. Ở Manchester, gần nhà tôi, có một xưởng in hoa. Nhiều lần khá khuya, khi về nhà, tôi c̣n thấy đèn sáng trong xưởng; tôi lại thường nghe nói rằng: ở đó, bọn trẻ phải làm việc quá lâu, nên chúng hay t́m cơ hội để nghỉ hoặc ngủ một tí, trên bậc thềm đá hoặc trong một góc ở pḥng ngoài. Tôi không có tài liệu xác thực về việc này, nếu có, tôi đă nêu tên xưởng ấy. "Báo cáo của tiểu ban điều tra về lao động trẻ em" chỉ nói qua về t́nh cảnh của công nhân ngành ấy, theo đó th́: ở Anh, ít ra lũ trẻ phần lớn c̣n được ăn và mặc khá tốt (điều này cũng tương đối, dĩ nhiên là tùy theo số tiền cha mẹ chúng kiếm được), nhưng chúng lại chẳng được giáo dục chút nào, và về đạo đức th́ chẳng ra sao. Chỉ cần hiểu rằng bọn trẻ ấy sống dưới chế độ công xưởng, và liên hệ với những điều đă nói về chế độ ấy là đủ; bây giờ có thể nói sang vấn đề khác.

Về các công nhân khác trong ngành sản xuất hàng may mặc, ta chỉ nói thêm chút ít. Công việc của thợ tẩy trắng rất hại cho sức khỏe, v́ họ luôn phải hít khí Clo, một chất độc cho phổi. Công việc của thợ nhuộm ít hại hơn, nhiều khi c̣n lợi sức khỏe, v́ nó đ̣i hỏi dùng sức toàn thân. Vấn đề tiền lương của họ hầu như không được nói tới, điều đó chứng tỏ rằng tiền lương ấy không thấp hơn mức trung b́nh, nếu không th́ họ đă kêu ca rồi. V́ hàng nhung sợi bông được tiêu thụ mạnh, nên số thợ xén nhung khá đông, có tới 3-4 ngh́n người gián tiếp bị điêu đứng v́ chế độ công xưởng. Hàng do máy dệt thủ công sản xuất trước đây th́ không đều lắm, nên cần thợ lành nghề xén từng hàng chỉ cho đều. Từ khi dệt bằng máy hơi nước, các hàng chỉ đều tăm tắp, sợi ngang hoàn toàn song song với nhau, nên việc xén không c̣n đ̣i hỏi nhiều kĩ xảo. Các công nhân bị máy móc làm cho thất nghiệp đă đổ xô vào việc ấy, và v́ cạnh tranh nên tiền lương hạ xuống. Các chủ xưởng th́ thấy hoàn toàn có thể thuê phụ nữ và trẻ em đi xén nhung, do đó tiền lương hạ xuống mức của phụ nữ và trẻ em, hàng trăm người đàn ông bị đào thải hẳn. Giới chủ c̣n thấy: để công nhân làm ở xưởng th́ rẻ hơn là để họ làm tại xưởng riêng của họ, v́ khi công nhân làm ở xưởng riêng th́ chủ xưởng phải gián tiếp trả tiền thuê các xưởng ấy. Từ đó, gác xép của nhiều cottage, trước đây dùng làm xưởng xén, nay th́ bỏ trống hoặc dùng để ở; các thợ xén nhung th́ mất quyền tự do chọn giờ làm việc, và phải tuân theo tiếng chuông công xưởng. Một thợ xén nhung trạc 45 tuổi nói với tôi rằng: ông vẫn nhớ cái thời ḿnh kiếm được 8 penny mỗi yard, c̣n ngày nay là 1 penny; thật vậy, dù có thể xén nhanh hơn v́ máy dệt ra sợi rất đều, nhưng cũng khó mà làm được gấp đôi mức ngày xưa, thế nên lương của ông đă giảm đi hơn 3/4 so với trước. Leach đă lập một bảng so sánh tiền công của nhiều loại hàng dệt, giữa năm 1827 và năm 1843 ("Những sự thực không thể bác bỏ", tr. 35). Theo đó, năm 1827, thợ xén nhung được 4 penny, 2 1/4 penny, 2 3/4 penny, 1 penny mỗi yard; năm 1843 th́ tương ứng chỉ c̣n 1 1/2 penny, 3/4 penny, 1 penny, 3/8 penny. Theo Leach, tiền lương b́nh quân mỗi tuần năm 1827 là 1 Bảng 6 shilling 6 penny, 1 Bảng 2 shilling 6 penny, 1 Bảng, 1 Bảng 6 shilling 6 penny; tới năm 1843 th́ tương ứng chỉ c̣n 10 shilling 6 penny, 7 shilling 6 penny, 6 shilling 8 penny, 10 shilling; và c̣n hàng trăm công nhân khác thậm chí không kiếm được mức lương thấp nhất ở đó. Về các thợ dệt thủ công trong công nghiệp bông vải sợi, th́ ta đă nói tới rồi. Các loại hàng dệt khác hầu như hoàn toàn do thợ dệt thủ công làm, họ cũng bị điêu đứng như các thợ xén nhung; do những công nhân ở các ngành khác, bị máy móc làm thất nghiệp nên đổ xô sang; ngoài ra, hệt như công nhân công xưởng, nếu họ làm không tốt th́ bị phạt một cách tàn nhẫn. Ví dụ công nhân dệt lụa. Một trong những chủ xưởng dệt lụa lớn nhất nước Anh là Brocklehurst đă lấy vài bảng thống kê trong sổ sách của ông ta để tŕnh lên tiểu ban nghị viện; theo đó th́ năm 1821, ông ta đă trả tiền công cho các loại công việc là 30 shilling, 14 shilling, 3 1/2 shilling, 3/4 shilling, 1 1/2 shilling, 10 shilling; đến năm 1831 th́ tương ứng chỉ c̣n 9 shilling, 7 1/2 shilling, 2 1/4 shilling, 1/3 shilling, 1/2 shilling, 6 1/4 shilling, dù ở ngành này máy móc chưa được cải tiến chút nào. Những việc ông Brocklehurst đă làm có thể coi là tiêu chuẩn cho cả nước Anh. C̣n công nhân dệt ở xưởng ấy, năm 1821, sau khi trừ mọi khoản khấu hao, th́ được mỗi tuần 16 1/2 shilling; đến năm 1831 chỉ c̣n 6 shilling. Từ đó đến nay, tiền lương c̣n giảm hơn nữa: năm 1831, một loại hàng dệt (gọi là single sarsnets) có tiền công là 4 penny mỗi yard, tới năm 1843 chỉ c̣n 2 1/2 penny, và rất nhiều thợ dệt ở nông thôn chỉ có việc làm nếu lấy tiền công là 1 1/2-2 penny mỗi yard. Ngoài ra c̣n có các khoản khấu trừ vào tiền công nữa. Mỗi thợ dệt khi nhận sợi th́ cũng nhận một tấm các ghi ngày giờ giao sản phẩm, nếu ốm không làm việc được th́ trong ba ngày phải báo cho văn pḥng biết, nếu không th́ dù có ốm thật cũng bị trừ tiền; phải chờ lấy sợi nên bị muộn th́ cũng bị trừ tiền; nếu có sai sót (ví dụ: dùng nhiều sợi hơn qui định trên một chiều dài nhất định, v.v.) th́ bị trừ không dưới một nửa tiền công; nếu không giao hàng đúng hạn th́ cứ mỗi yard bị trừ một penny. Các khoản khấu trừ ghi trên tấm các ấy đă làm cho tiền lương giảm rất nhiều; ví dụ, có một người nhận hàng, cứ một tuần hai lần đến Leigh (Lancashire) để lấy sản phẩm; mỗi lần như thế, ông ta mang về cho chủ xưởng một món tiền phạt, ít nhất 15 Bảng. Chính ông ta đă nói thế, và đó vẫn được coi là một trong những người khoan dung nhất. Trước kia, vấn đề ấy là do ṭa án trọng tài giải quyết, nhưng ai mà đ̣i xin ṭa án giải quyết th́ thường bị sa thải ngay, nên tục lệ đó dần mất hẳn; bây giờ, chủ xưởng có thể hoàn toàn làm theo ư muốn; y vừa là nguyên cáo, vừa là nhân chứng, vừa là quan ṭa, vừa là nhà lập pháp, vừa là người hành pháp, tất cả trong một. Nếu công nhân kiện tới thẩm phán ḥa giải th́ sẽ được trả lời: "Các anh đă nhận tấm các ấy tức là các anh đă kí giao kèo rồi, các anh phải thi hành giao kèo", y như với công nhân công xưởng. Ngoài ra, chủ xưởng c̣n bắt công nhân phải kí vào một văn tự, ghi rơ là anh ta "đồng ư chịu khấu trừ". Nếu anh ta phản đối, th́ lập tức các chủ xưởng trong toàn thành phố đều biết ngay anh ta, như Leach nói, là một kẻ

"không chịu phục tùng trật tự và luật lệ được qui định trên tấm các; dám cả gan nghi ngờ về trí tuệ của những người, mà anh ta phải biết rằng họ là bề trên của anh ta trong xă hội" ("Những sự thực không thể bác bỏ", tr. 37-40).

Dĩ nhiên, các công nhân dệt đều hoàn toàn tự do, chủ xưởng không hề bắt họ phải lĩnh sợi và tấm các của hắn; và theo lối nói vắn tắt và rơ ràng của Leach, th́ chủ xưởng chỉ nói với công nhân rằng:

"Nếu không muốn bị rán ở trong chảo mỡ của tôi, th́ các anh có thể đi vào trong lửa" (If you don't like to be frizzled in my frying-pan, you can take a walk into the fire).

Các công nhân dệt lụa ở London, nhất là Spitalfield, từ lâu đă sa vào cảnh khốn khổ cùng cực có tính chu ḱ, và họ vẫn chưa có lí ǵ để thỏa măn về t́nh cảnh hiện nay của ḿnh; bằng chứng là việc họ hết sức tích cực tham gia tất cả các cuộc đấu tranh của công nhân Anh, nhất là ở London. Sự cực khổ của họ là nguyên nhân bùng phát của một trận dịch sốt ở phía đông London, điều đó dẫn đến việc thành lập một tiểu ban điều tra về t́nh h́nh vệ sinh của giai cấp công nhân. Tuy vậy, báo cáo mới nhất của bệnh viện sốt London cho thấy rằng bệnh sốt ấy vẫn hoành hành dữ dội như trước.

Sau dệt may, ngành quan trọng thứ hai của công nghiệp Anh là chế tạo đồ kim loại. Trung tâm của nó là Birmingham, với nhiều loại sản phẩm tinh vi; là Sheffield, chuyên sản xuất dao kéo; và Staffordshire, nhất là Wolverhampton, chuyên làm các loại hàng giản đơn như khóa, đinh, v.v. Ta sẽ mô tả t́nh cảnh của công nhân ngành ấy, bắt đầu với Birmingham. Ở đó, cũng như ở hầu hết các địa phương làm đồ kim loại, tổ chức sản xuất vẫn c̣n một số đặc điểm của thủ công nghiệp thời xưa. Vẫn có những thợ cả, cùng với thợ học việc của ḿnh, làm việc trong xưởng riêng tại nhà họ; khi cần dùng máy hơi nước th́ họ đến làm ở một công xưởng lớn, xưởng ấy được chia thành nhiều gian nhỏ, mỗi thợ cả thuê một gian; mỗi gian c̣n có dây cua-roa, truyền lực từ động cơ hơi nước để chạy máy. Léon Faucher (tác giả nhiều bài báo nói về t́nh cảnh công nhân Anh, đăng trên tạp chí "Revue des deux Mondes"; những bài ấy chứng tỏ rằng tác giả ít ra cũng đă nghiên cứu vấn đề, và chúng chắc chắn c̣n khá hơn, so với những cái mà người Anh hay người Đức đă viết, về vấn đề ấy) đă gọi cách tổ chức sản xuất ấy là démecratie industrielle2, để đối lập nó với nền sản xuất lớn của Lancashire và Yorkshire. Ông c̣n nói rằng: kiểu tổ chức ấy không có lợi mấy, đối với thợ cả cũng như thợ bạn. Nhận xét ấy hoàn toàn đúng: cùng một món lợi nhuận, ở trường hợp khác th́ chỉ thuộc về một chủ xưởng lớn, giờ đây do cạnh tranh nên nó bị chia nhỏ cho nhiều thợ cả, v́ vậy việc kinh doanh của các thợ cả ấy không khá lên được. Xu hướng tập trung tư bản thường ḱm hăm họ: cứ một người phát tài th́ mười người khác phá sản, và một trăm người khác nữa gặp khốn khó hơn trước; v́ áp lực cạnh tranh, khi mà người phát tài kia có thể bán hàng với giá rẻ hơn. Và khi phải cạnh tranh với các nhà tư bản lớn, th́ dĩ nhiên là các thợ cả phải vất vả lắm mới sống nổi. Các thợ học việc th́ như ta sẽ thấy, họ sống với thợ cả ít ra cũng khổ như với chủ xưởng, có khác là sau này họ cũng sẽ trở thành thợ cả, do đó họ được độc lập ít nhiều; có thể nói là họ cũng bị giai cấp tư sản bóc lột, nhưng không trực tiếp như ở công xưởng. Vậy các thợ cả ấy không phải là người vô sản thực thụ, v́ họ ít nhiều vẫn sống nhờ lao động của thợ học việc, và cái họ bán ra không phải là lao động, mà là sản phẩm; nhưng họ cũng không phải là người tư bản thực thụ, v́ họ sống chủ yếu bằng lao động của bản thân. Địa vị lưng chừng, độc đáo ấy của công nhân Birmingham là lí do của việc họ rất ít tham gia, một cách toàn bộ và công khai, vào phong trào công nhân Anh. Birmingham là một thành phố cấp tiến về chính trị, nhưng không kiên quyết ủng hộ phong trào Hiến chương. Nhưng ở đây cũng có nhiều nhà tư bản sở hữu các công xưởng lớn, tại đó, chế độ công xưởng đă được thiết lập vững chắc; sự phân công lao động hết sức tinh tế (như trong ngành sản xuất kim), và việc dùng sức hơi nước, khiến các chủ xưởng có thể thuê rất nhiều phụ nữ và trẻ em. Thế nên cũng có thể thấy ở đây (theo "Báo cáo của tiểu ban điều tra về lao động trẻ em") những chuyện mà báo cáo về công xưởng đă nói tới nhiều lần: phụ nữ có thai phải làm việc đến tận ngày đẻ, và không biết thu xếp việc nhà; con cái không được săn sóc, nên lạnh nhạt và chán ghét cuộc sống gia đ́nh, đạo đức sa sút; đàn ông bị loại bỏ, máy móc không ngừng cải tiến, trẻ con tự lập quá sớm, chồng phải sống nhờ vào vợ con, v.v., và v.v. Theo như báo cáo th́ lũ trẻ đói khát, rách rưới. Có một nửa số trẻ không biết ăn no là thế nào; nhiều đứa một ngày chỉ ăn một penny bánh ḿ, hoặc chẳng được ăn ǵ trước bữa trưa; thậm chí có đứa c̣n không được ăn ǵ ăn từ tám giờ sáng đến tận bẩy giờ tối. Quần áo chúng thường không đủ che thân; nhiều đứa thậm chí vẫn đi chân trần vào mùa đông. Do đó, chúng đều bé nhỏ, yếu ớt so với tuổi; rất ít đứa phát triển tốt. Nếu chú ư rằng, trong khi các phương tiện bồi dưỡng sức khỏe th́ thiếu thốn như thế, mà chúng lại phải lao động nặng nhọc kéo dài, trong những căn pḥng ngột ngạt; th́ sẽ chẳng ngạc nhiên khi thấy số đàn ông có thể tham gia quân đội ở Birmingham lại ít như thế.

Một y sĩ tuyển tân binh nói: "Các công nhân đều bé nhỏ, gầy g̣ và thể lực rất kém; có nhiều người bị cong vẹo lồng ngực hoặc cột sống".

Theo lời của một hạ sĩ quan tuyển tân binh, đàn ông Birmingham thấp bé hơn so với bất ḱ địa phương nào khác: thường chỉ cao 5 foot 4-5 inch; trong 613 tân binh ṭng quân, chỉ 238 người đủ tiêu chuẩn. Về giáo dục th́ xin độc giả quay lại xem các dẫn chứng và thí dụ đă nêu ở trên, về đời sống ở các khu vực làm đồ kim loại. Hơn nữa, theo "Báo cáo của tiểu ban điều tra về lao động trẻ em" th́ ở Birmingham có quá nửa số trẻ 5-15 tuổi không được đi học, số trẻ đi học th́ luôn thay đổi, thế nên muốn cho chúng chút ít giáo dục kha khá cũng không được; tất cả trẻ đều bỏ học rất sớm để đi làm. Qua báo cáo c̣n có thể thấy, những giáo viên ở đó là người thế nào. Một nữ giáo viên, khi được hỏi có dạy đạo đức không, đă trả lời: "Không, học phí chỉ có ba penny mỗi tuần, th́ không thể đ̣i hỏi như vậy". Một số giáo viên không hiểu "dạy đạo đức" là ǵ, số khác th́ cho rằng giáo dục đạo đức cho trẻ không phải là việc của họ. Chỉ có một nữ giáo viên nói: tuy ḿnh không dạy đạo đức, nhưng gắng sức truyền cho trẻ những nguyên tắc tốt đẹp; khi nói câu đó, bà ta đă mắc lỗi văn phạm. Một ủy viên nói: lớp học thường ồn ào, lộn xộn. Do đó, tŕnh độ đạo đức của trẻ em rất tệ: một nửa số tội phạm là dưới 15 tuổi; chỉ trong một năm, đă có 90 trẻ mười tuổi bị kết án, trong đó 44 đứa phạm tội h́nh sự. Theo các ủy viên tiểu ban, th́ quan hệ t́nh dục hỗn loạn, ngay từ tuổi rất nhỏ, hầu như là hiện tượng phổ biến (Grainger, "Báo cáo" và Văn kiện).

T́nh h́nh Staffordshire c̣n tệ hơn. Ở đấy sản xuất đồ sắt giản đơn, mà ngành này th́ không thể tiến hành phân công lao động tỉ mỉ (trừ một số ít việc), cũng không thể dùng hơi nước hay máy móc. Thế nên ở Wolverhampton, Willenhall, Bilston, Sedgeley, Wednesfield, Darlaston, Dudley, Walsall, Wednesbury, v.v. có khá ít công xưởng, nhưng các ḷ rèn nhỏ th́ rất nhiều; ở các ḷ ấy, một thợ cả làm việc với một vài thợ học việc, những người học việc này phải phục vụ thợ cả tới năm 21 tuổi. T́nh cảnh của thợ cả gần giống như ở Birmingham, c̣n thợ học việc th́ phần lớn là tệ hơn nhiều. Họ hầu như chỉ được ăn thịt của các con vật bị bệnh hoặc bị chết: thịt ôi, cá ươn, thịt bê chết non, thịt lợn chết trong toa xe lửa. Không chỉ các thợ cả, mà các chủ xưởng lớn, có tới 30-40 thợ học việc, cũng làm như vậy. T́nh h́nh ấy hầu như phổ biến ở Wolverhampton, hậu quả tự nhiên của nó là bệnh đường ruột rất thường xuyên, và các bệnh khác nữa. Ngoài ra, bọn trẻ ít khi được ăn no, và ngoài bộ đồ lao động, chúng không có quần áo ǵ khác; đó là một nguyên nhân khiến chúng không đi học ở các trường chủ nhật. Chỗ ở tồi tàn và bẩn thỉu, đến mức trở thành nguồn phát sinh bệnh tật; dù về cơ bản th́ công việc không hại cho sức khỏe, nhưng lũ trẻ vẫn rất bé nhỏ, khẳng khiu, yếu đuối; nhiều khi chúng c̣n bị tàn tật ghê gớm do lao động. Như ở Willenhall, có rất nhiều người v́ thường làm việc ở máy rèn đinh ốc, nên bị gù lưng và vẹo một bên đầu gối, gọi là "chân quặt" (hind-leg), như vậy hai chân thành h́nh chữ K; ngoài ra c̣n có ít nhất 1/3 công nhân bị chứng thoát vị. Ở đây cũng như Wolverhampton, tuổi dậy th́ của con gái (v́ con gái cũng làm việc ở ḷ rèn!) cũng như con trai thường rất muộn, có khi phải tới 19 tuổi. Ở thành phố Sedgeley và vùng lân cận, hầu như chuyên sản xuất đinh, người ta phải sống và làm việc trong những gian lều tồi tàn như chuồng súc vật, bẩn thỉu quá sức tưởng tượng. Con gái và con trai từ 10-12 tuổi đă phải quai búa, đến khi nào có thể làm ra 1000 cái đinh mỗi ngày, chúng mới được coi là thợ thật sự. Làm 1200 chiếc đinh th́ được 5 3/4 penny. Cần 12 nhát búa để làm ra 1 cái đinh, và v́ cái búa nặng 1 1/4 pound, nên công nhân phải nhấc lên 18000 pound mới kiếm nổi chút tiền lương khốn nạn ấy. Trong điều kiện lao động vất vả mà lại bị thiếu ăn, cơ thể bọn trẻ dĩ nhiên là phát triển không tốt, bé nhỏ, yếu đuối; tài liệu của tiểu ban đă chứng thực điều ấy. Về t́nh h́nh giáo dục ở khu ấy, chúng tôi đă cung cấp một số tư liệu. Tŕnh độ giáo dục ở đây thấp đến mức không tưởng tượng được: một nửa số trẻ thậm chí không đến trường học chủ nhật, số c̣n lại dù có đến th́ cũng rất chểnh mảng; so với các khu khác, số trẻ biết đọc rất ít, biết viết lại càng ít. Dĩ nhiên, v́ chính khoảng từ 7-10 tuổi, đúng vào tuổi đi học phù hợp nhất, th́ chúng lại bắt đầu phải đi làm; c̣n thầy giáo ở trường chủ nhật toàn là thợ rèn hoặc thợ mỏ, họ thường chỉ biết đọc vài ba chữ, thậm chí không viết nổi tên ḿnh. Tŕnh độ đạo đức th́ phù hợp với tŕnh độ giáo dục. Ủy viên Horne dẫn ra nhiều ví dụ chứng tỏ rằng: ở Willenhall, công nhân chẳng có ư niệm ǵ về đạo đức. Ông thấy rằng: con cái nói chung không có ư thức về bổn phận với cha mẹ, cũng không có t́nh cảm kính yêu với họ. Chúng gần như không biết suy nghĩ về những ǵ ḿnh nói, chúng u mê đần độn đến nỗi thường cho là ḿnh được đối xử tốt và sống dễ chịu; trong khi chúng phải làm việc 12-14 giờ một ngày, ăn đói mặc rách, bị đánh đập đến nỗi mấy ngày sau c̣n thấy đau. Chúng không biết đến lối sống nào khác, ngoài việc lao động cực khổ từ sáng đến tối, tới khi được phép nghỉ; chúng không hiểu được câu hỏi "có mệt hay không?", chưa ai từng hỏi chúng câu đó (Horne, "Báo cáo" và Văn kiện).

Sheffield tiền lương khá hơn, thế nên t́nh cảnh bề ngoài của công nhân cũng vậy. Nhưng ở đây cũng cần chỉ ra vài ngành lao động cực ḱ hại cho sức khỏe. Một số thao tác buộc công nhân phải thường lấy ngực đè lên dụng cụ, việc đó thường dẫn đến lao phổi; một số thao tác khác, chẳng hạn như sản xuất giũa, lại ngăn cản sự phát triển chung của cơ thể, gây ra các bệnh đường ruột; việc gọt xương (làm cán dao) gây ra nhức đầu, hoàng đản, nhiều bé gái làm việc ấy th́ mắc chứng thiếu máu. Nhưng hại sức khỏe nhất là việc mài lưỡi dao và răng dĩa: nó chắc chắn làm cho công nhân chết sớm, đặc biệt là khi mài bằng đá khô. Cái hại ấy một phần v́ phải đứng khom lưng, do đó ngực và dạ dày thường bị ép; nhưng chủ yếu là v́ rất nhiều bụi kim loại li ti sắc cạnh, bay đầy trong không khí mỗi khi mài, không thể không hít phải chúng. Thợ mài đá khô trung b́nh rất khó sống đến 35 tuổi, thợ mài đá ướt cũng rất ít ai sống đến quá 45 tuổi. Bác sĩ Knight ở Sheffield nói:

"Để người ta phần nào hiểu được tác hại của công việc ấy, tôi phải nói rằng: trong giới thợ mài, những người nghiện rượu nặng nhất lại sống lâu nhất, v́ họ làm việc ít hơn so với những người khác. Ở Sheffield, tổng cộng có chừng 2500 thợ mài; trong số ấy có độ 150 người (80 đàn ông, 70 em bé) mài răng dĩa, họ thường chết ở tuổi 28-32. Thợ mài dao cạo, dù bằng đá khô hay đá ướt, đều chết ở 40-45 tuổi; c̣n thợ mài dao ăn bằng đá ướt th́ 40-50 tuổi là chết".

Ông mô tả diễn biến chứng bệnh của họ, gọi là bệnh suyễn của thợ mài, như sau:

"Họ thường bắt đầu làm việc từ mười bốn tuổi, nếu cơ thể khỏe mạnh th́ trước hai mươi tuổi, họ chẳng thấy ǵ đặc biệt khó chịu; sau đó, những triệu chứng đặc thù của bệnh ấy bắt đầu hiện ra: khi họ leo dốc hay lên cầu thang, chỉ gắng sức một ít là đă bị khó thở; để giảm bớt chứng khó thở ngày càng nặng ấy, họ phải vươn vai cao lên, phải luôn cúi về phía trước, và h́nh như chỉ đứng khom lưng như lúc làm việc th́ mới thấy dễ chịu; da mặt họ dần thành vàng ệch, và có vẻ âu sầu; họ phàn nàn về việc bị tức ngực, giọng họ trở nên khản đặc; họ ho mạnh, tiếng ho nghe như phát ra từ một thùng gỗ; có những khi họ khạc ra nhiều bụi, hoặc lẫn với đờm, hoặc kết thành những cục tṛn hay h́nh trụ, có một màng đờm mỏng bao quanh. Sau đó là ho ra máu, khó nằm ngửa, đổ mồ hôi trộm ban đêm, đau bụng đi ngoài, sút cân cực nhanh, cùng với mọi triệu chứng quen thuộc của lao phổi; cứ như vậy, họ khổ sở hàng tháng, thậm chí hàng năm, không thể làm việc để nuôi ḿnh và gia đ́nh, cuối cùng là chết. Tôi phải nói thêm rằng: đến nay, mọi cố gắng để pḥng và chữa bệnh suyễn của thợ mài đều hoàn toàn thất bại".

Đó là những điều mà bác sĩ Knight viết mười năm trước. Từ đó, số thợ mài tăng lên, và độ dữ dội của bệnh ấy cũng vậy; dù vài biện pháp pḥng bệnh, như che kín đá mài và dùng luồng gió để hút bụi, đă được thực hiện. Việc ấy ít nhất đă phần nào thành công, nhưng chính các thợ mài lại không muốn dùng các thiết bị ấy, thậm chí có nơi họ c̣n phá bỏ chúng; họ sợ rằng việc đó sẽ thu hút thêm nhiều thợ vào nghề này, rồi tiền lương của họ sẽ giảm, họ thà "sống cuộc đời ngắn ngủi, nhưng khoan khoái". Với các thợ mài có triệu chứng đầu tiên của bệnh suyễn, đến chỗ ḿnh khám bệnh, bác sĩ Knight thường nói: trở lại với nghề mài nghĩa là đi vào chỗ chết. Nhưng vô ích: đă làm thợ mài là chẳng c̣n hi vọng ǵ, như là đă bán ḿnh cho quỉ. Tŕnh độ giáo dục ở Sheffield rất thấp. Một linh mục có nhiều kinh nghiệm trong việc thống kê giáo dục cho rằng: trong 16500 trẻ ở tuổi đi học thuộc giai cấp công nhân, không quá 6500 đứa biết đọc. Lí do là cứ tới bẩy tuổi, muộn nhất là mười hai tuổi, th́ chúng bị đưa ra khỏi trường học; c̣n các giáo viên th́ chẳng ra ǵ (trong đó có một tên ăn cắp đă bị bắt quả tang, ra tù th́ không biết làm ǵ kiếm sống, nên mới đi dạy học!). T́nh h́nh trụy lạc đạo đức trong thanh niên ở Sheffield h́nh như ghê gớm hơn bất ḱ đâu (nhưng thật khó nói là thành phố nào đoạt giải nhất về mặt ấy, khi đọc báo cáo th́ thấy nơi nào cũng đáng được nhất cả). Cứ chủ nhật là bọn thanh niên lang thang ngoài phố cả ngày, chơi sấp ngửa hay thúc cho chó cắn lộn nhau; chúng thường la cà ở quán rượu, ngồi với t́nh nhân ở đó đến tận đêm khuya, rồi từng cặp đi dạo chơi ở những chỗ hẻo lánh. Một ủy viên tiểu ban thấy trong một quán rượu nhỏ có 40-50 thiếu niên trai gái hầu hết dưới 17 tuổi, mỗi chàng ngồi bên bạn gái của ḿnh. Một số chơi bài, số khác ca hát nhảy múa; tất cả đều uống rượu. Một số gái điếm chuyên nghiệp cũng ngồi đấy. Thế nên chẳng có ǵ lạ khi tất cả những nhân chứng đều nói: quan hệ t́nh dục bừa băi quá sớm và nạn mại dâm là hết sức phổ biến ở Sheffield, cả với thiếu niên 14-15 tuổi. Hành vi phạm tội hết sức liều lĩnh và dă man là chuyện thường. Một năm trước khi ủy viên tiểu ban tới, ở Sheffield đă bắt được một bọn âm mưu đốt thành phố, chủ yếu là thanh niên; chúng được trang bị đầy đủ chất đốt và giáo dài. Dưới đây ta sẽ thấy là phong trào công nhân ở Sheffield cũng mang tính chất không kiềm chế được như thế (Symons, "Báo cáo" và Văn kiện).

Ngoài những trung tâm công nghiệp kim khí chủ yếu ấy, c̣n có các xưởng kim găm ở Warrington (Lancashire), công nhân ở đây, nhất là trẻ em, cũng hết sức cùng khổ, bại hoại đạo đức và dốt nát; và mấy nhà máy đinh ở vùng cận Wigan (Lancashire) và miền Đông Scotland. Những báo cáo về mấy khu vực ấy hầu như hoàn toàn phù hợp với những báo cáo về Staffordshire.

Trong công nghiệp kim khí, chỉ c̣n một ngành mà ta chưa nói tới, đó là chế tạo máy. Ngành này chủ yếu có ở các khu công xưởng, nhất là Lancashire. Đặc điểm của ngành đó là dùng máy móc để chế tạo máy móc, như vậy là nó phá hủy nốt chỗ nương thân cuối cùng của những công nhân bị gạt bỏ khỏi các ngành khác, đây là việc chế tạo ra chính những cái máy sẽ thay thế và đào thải họ. Những máy bào, máy khoan; máy làm đinh vít, bánh xe, ốc, v.v., và các máy tiện đă loại bỏ hàng loạt công nhân; những người ấy xưa kia có lương cao và luôn có việc làm, bây giờ bị thất nghiệp; có thể gặp hàng đoàn người như thế ở Manchester.

Bây giờ ta nói đến một khu công nghiệp ở phía Bắc khu làm đồ sắt Staffordshire, với ngành sản xuất đồ gốm (potteries); có trung tâm là Stoke, bao gồm Henley, Burslem, Lane End, Lane Delph, Etruria, Coleridge, Langport, Tunstall, Golden Hill, tất cả có 6 vạn dân. "Báo cáo của tiểu ban điều tra về lao động trẻ em" viết: ở vài ngành sản xuất đồ gốm, trẻ em được làm việc nhẹ trong những pḥng ấm và rộng; ở một vài ngành khác, th́ chúng không được ăn no mặc ấm, lại phải làm việc vất vả. Nhiều đứa kêu ca: "Tôi không được ăn no, thường chỉ có khoai tây chấm muối, chẳng bao giờ có thịt và bánh ḿ; tôi không được đi học, không có quần áo nào khác để thay. - Trưa nay chẳng có ǵ ăn, ở nhà tôi chưa bao giờ được ăn bữa trưa; thức ăn thường chỉ là khoai tây chấm muối, đôi khi có bánh ḿ. - Quần áo tôi mặc trên người là tất cả những thứ tôi có; tôi không có quần áo ngày lễ". Có những đứa trẻ gọi là mould-runner, công việc của chúng đặc biệt hại cho sức khỏe, đó là đem đồ gốm c̣n ở trong khuôn đến nhà phơi, khi đồ gốm khô th́ đem khuôn rỗng về xưởng. Thế là chúng phải chạy đi chạy lại suốt ngày, mang các thứ quá nặng so với tuổi; mà phải làm ở nơi nhiệt độ cao, nên chúng càng mệt mỏi. Những trẻ ấy, hầu như không trừ đứa nào, đều gầy g̣, xanh xao, yếu đuối, bé nhỏ, thân h́nh khó coi; chúng hầu hết đều mắc bệnh đường ruột, bị nôn mửa, chán ăn, nhiều đứa chết v́ lao phổi. Những đứa trẻ quay bánh xe (jigger), do đó cũng được gọi là jigger, hầu hết cũng yếu đuối như vậy. Nhưng có hại nhất là việc đem sản phẩm ngâm vào nước men chứa nhiều ch́, và thường có thêm nhiều thạch tín, rồi dùng tay không để lấy những đồ vừa ngâm trong nước men ấy ra. Bàn tay và quần áo của những công nhân ấy, đàn ông và trẻ em, luôn nhầy nhụa nước men; da tay họ bở ra, và v́ phải thường xuyên cầm những vật xù x́, da dễ bị rách, nên ngón tay bị chảy máu, luôn làm cho những chất độc ấy rất dễ xâm nhập vào cơ thể. Kết quả là những cơn đau dữ dội và những bệnh nghiêm trọng về ruột và dạ dày: táo bón dai dẳng, đau bụng; có khi là lao phổi, trẻ con th́ thường bị động kinh. Đàn ông thường bị liệt cơ bàn tay, colica pictorum3, và liệt hoàn toàn các chi. Một nhân chứng nói: hai chú bé làm cùng anh ta đă chết v́ bị co giật khi đang làm việc. Một nhân chứng khác, hồi nhỏ đă phụ việc ở thùng tráng men trong hai năm, th́ nói: đầu tiên anh ta bị đau dụng dữ dội, sau đó bị co giật, phải nằm liệt giường hai tháng; từ đấy về sau th́ bị co giật ngày càng nhiều, bây giờ hàng ngày đều lên cơn, thường từ 10-20 cơn mỗi ngày. Nửa thân bên phải của anh ta đă bị liệt, và bác sĩ nói rằng anh ta sẽ không bao giờ sử dụng được tay phải và chân phải nữa. Ở bể tráng men của một công xưởng nọ, có bốn người đàn ông, họ đều bị động kinh và đau bụng dữ dội; và mười một bé trai, trong đó cũng có mấy đứa bị động kinh. Tóm lại, cái bệnh ghê gớm ấy là hậu quả tự nhiên của việc tráng men, và cũng là để làm giàu thêm cho giai cấp tư sản! Ở chỗ đánh bóng đồ gốm, không khí tràn ngập bụi đá li ti, hít phải nó cũng có hại hệt như những thợ mài ở Sheffield phải hít bụi thép. Họ bị khó thở, không thể nằm xuống, đau họng, ho dữ dội, giọng nói yếu nên gần như không ai nghe thấy. Họ cũng bị lao phổi mà chết. Trong khu làm đồ gốm này có khá nhiều trường học, trẻ em lẽ ra có thể đi học, nhưng chúng lại phải làm ở công xưởng từ tuổi nhỏ, và ngày làm việc lại quá dài (thường là mười hai giờ, có khi c̣n hơn), thế nên chúng không thể tới trường; trong số trẻ mà ủy viên tiểu ban đă kiểm tra, có tới 3/4 không biết đọc cũng như viết, và cả khu ấy ch́m trong nạn dốt nát nghiêm trọng. Có những trẻ đă học trường chủ nhật nhiều năm rồi, mà không phân biệt được các chữ cái. Không chỉ giáo dục tri thức, mà cả giáo dục đạo đức và giáo dục tôn giáo cũng ở tŕnh độ rất thấp (Scriven, "Báo cáo" và Văn kiện).

Trong ngành sản xuất thủy tinh có những việc h́nh như không có hại lắm với người lớn, nhưng trẻ em th́ chịu không nổi. Lao động nặng nhọc, thời gian làm việc thất thường, hay phải làm đêm, nhất là nhiệt độ cao (37-54 độ C) ở nơi làm việc; tất cả những cái ấy làm cho lũ trẻ suy yếu toàn thân, hay bị bệnh, phát triển kém; đặc biệt là bệnh đau mắt, đau dạ dày, viêm phế quản và thấp khớp. Rất nhiều trẻ xanh xao, mắt đỏ, nhiều khi không nh́n thấy ǵ suốt mấy tuần; bị buồn nôn dữ dội, ọe mửa, ho, cảm lạnh và thấp khớp. Khi lấy sản phẩm từ trong ḷ ra, bọn trẻ buộc phải làm việc ở nhiệt độ rất cao, tới mức những mảnh ván dưới chân chúng cũng bốc cháy. Công nhân thổi thủy tinh thường chết rất sớm v́ bị kiệt sức và lao phổi (Leifchild, "Báo cáo", phụ lục, phần II, tr. L2, §§ 11, 12; Franks, "Báo cáo", phụ lục, phần II, tr. K7, § 48; Tancred, Văn kiện, phụ lục, phần II, tr. 176, v.v.; tất cả đều trong "Báo cáo của tiểu ban điều tra về lao động trẻ em").

Báo cáo đă chứng minh về đại thể rằng chế độ công xưởng dần thâm nhập không ngừng vào mọi ngành công nghiệp; điều đó đặc biệt lộ rơ ở việc sử dụng lao động của phụ nữ và trẻ em. Tôi cho rằng không cần nói về mọi biểu hiện của sự tiến bộ kĩ thuật, cũng như việc loại bỏ công nhân nam. Chỉ cần hiểu biết công nghiệp đôi chút, là người ta có thể tự bổ sung ngay những điều tôi chưa nói tới; khuôn khổ cuốn sách này không cho phép tôi nói tỉ mỉ về vấn đề đó của phương thức sản xuất hiện đại, c̣n kết quả th́ tôi đă nói sơ qua, khi bàn về chế độ công xưởng. Ở đâu cũng dùng máy móc, do đó mà di tích cuối cùng của sự độc lập của công nhân đă bị phá bỏ. Ở đâu gia đ́nh cũng bị phá hoại, do phụ nữ và trẻ em phải làm việc ở các công xưởng; hoặc quan hệ gia đ́nh bị đảo lộn, khi người đàn ông mất việc phải ở nhà, sống nhờ vợ con. Ở đâu cũng thấy, v́ sự tất yếu phải sử dụng máy móc, mà bọn đại tư bản đă nắm được mọi xí nghiệp, và cả vận mệnh của công nhân. Tài sản ngày càng tập trung một cách không thể ngăn chặn, sự phân chia xă hội thành đại tư bản và công nhân vô sản ngày càng rơ, và sự phát triển công nghiệp của cả nước đang tiến rất nhanh đến một cuộc khủng hoảng không thể tránh khỏi.

Ở trên tôi đă nói: về mặt thủ công nghiệp, thế lực của tư bản, và đôi khi cả sự phân công lao động, đă loại bỏ giai cấp tiểu tư sản; và thay vào đó bằng những nhà tư bản lớn và những công nhân vô sản. Không c̣n nhiều điều để nói về những thợ thủ công ấy, v́ mọi thứ có liên quan tới họ đều đă được nhắc đến khi bàn về giai cấp vô sản công nghiệp nói chung; từ khi cách mạng công nghiệp bắt đầu tới nay, th́ phương pháp làm việc ở đây, và ảnh hưởng của nó đến sức khỏe công nhân, đều biến đổi rất ít. Nhưng sự tiếp xúc thường xuyên với công nhân công nghiệp thực thụ, sự áp bức của bọn đại tư bản (nó c̣n nặng nề hơn nhiều so với sự áp bức của thợ cả, v́ thợ bạn vẫn c̣n có quan hệ cá nhân với thợ cả), ảnh hưởng của các thành phố lớn và t́nh h́nh tiền lương hạ; tất cả những cái ấy đă khiến hầu hết các thợ thủ công tham gia phong trào công nhân một cách tích cực. Ta sẽ sớm nói tới điều này; bây giờ hăy xét tới một loại công nhân ở London, họ đặc biệt đáng chú ư v́ đang chịu sự bóc lột cực ḱ dă man của giai cấp tư sản tham lam. Ở đây tôi muốn nói tới những cô làm hàng thời trang và những cô thợ may.

Điều ḱ lạ là chính việc chế tạo đồ trang sức cho các bà tư sản lại gây ra những hậu quả cực ḱ bi thảm cho sức khỏe của những công nhân làm việc ấy. Ta đă thấy điều đó khi nói về ngành sản xuất đăng-ten, c̣n ở đây lại có những chứng cớ mới, trong các cửa hàng thời trang ở London. Ở đó thuê rất nhiều thiếu nữ trẻ, tất cả gần 15.000 người, phần nhiều từ nông thôn ra; họ đều ăn ngủ ở nhà chủ, do đó đă trở thành nô lệ hoàn toàn của chủ. Vào mùa thời trang, khoảng bốn tháng trong một năm; ngay ở những cửa hàng tốt nhất, thời gian lao động cũng lên đến 15 giờ một ngày, và khi có hàng đặt gấp th́ tới 18 giờ. Nhưng trong đa số các cửa hàng, thời gian lao động ở thời ḱ ấy không có qui tắc ǵ cả; đến nỗi trong 24 giờ, những cô gái ấy không bao giờ có quá sáu giờ nghỉ; mà thường chỉ được ba, bốn giờ, có khi chỉ hai giờ. Như thế, nếu không phải làm thâu đêm (mà trên thực tế thường ngược lại), th́ họ cũng phải làm 19-22 giờ mỗi ngày! Tới khi mệt quá, tay không c̣n cầm nổi kim, th́ công việc của họ mới tạm ngưng. Đă có trường hợp: chín ngày liền, những con người đáng thương ấy không được thay đồ, chỉ có thể tranh thủ thời gian ngả ḿnh chốc lát trên chiếc đệm; người ta cho họ các thức ăn đă thái nhỏ, để họ nuốt cho thật nhanh. Tóm lại, những cô gái khốn khổ ấy phải sống như nô lệ, dưới sự đe dọa của cái roi tinh thần, đó là nguy cơ bị sa thải; họ bị buộc phải làm việc nặng nhọc triền miên, những việc mà ngay cả một người đàn ông khỏe mạnh c̣n không chịu nổi, nói ǵ đến những cô gái yếu đuối 14-20 tuổi. Ngoài ra, không khí ngột ngạt trong xưởng và tại nơi ở, việc thường phải ngồi g̣ lưng gập ngực, thức ăn tồi và khó tiêu, nhưng hơn hết là việc lao động quá dài và thiếu không khí trong lành; tất cả những cái ấy đă phá hoại sức khỏe của các cô gái một cách cực ḱ ghê gớm. Rất mau chóng, họ thấy mệt mỏi, kiệt sức, suy nhược, chán ăn, đau vai, đau lưng, đau hông, nhất là đau đầu; sau đó là cột sống bị vẹo, hai vai nhô cao và biến dạng, gầy g̣; sưng mắt, chảy nước mắt và đau mắt, cận thị; ho, ngực lép, khó thở và đủ thứ bệnh phụ nữ. Có nhiều trường hợp, mắt bị tổn thương nặng tới mức mù hẳn, thị lực hoàn toàn bị phá hoại; nhưng nếu mắt c̣n đủ khỏe để tiếp tục làm việc, th́ bệnh lao phổi cũng sẽ kết thúc cuộc đời bi thảm, ngắn ngủi của các cô thợ làm hàng thời trang ấy. Với cả những người đă rời bỏ công việc ấy tương đối sớm, thường cũng không bao giờ khôi phục được hoàn toàn sức khỏe; họ đau ốm luôn, nhất là sau khi lấy chồng, và sinh ra những đứa con cũng ốm yếu. Mọi thầy thuốc mà tiểu ban điều tra về lao động trẻ em đă hỏi, đều nhất trí rằng: không thể nghĩ ra một cách sống nào khác có thể làm tổn hại sức khỏe, và làm cho người ta chết sớm, như cuộc sống của những cô làm hàng thời trang.

Nói chung, những cô thợ may ở London cũng bị bóc lột tàn khốc như thế, chỉ ít trực tiếp hơn. Công việc của những cô gái may áo lót rất nặng nhọc, vất vả, và hại mắt. Tiền lương của họ ra sao? Tôi không rơ, nhưng tôi biết rằng người thầu khoán chịu trách nhiệm về số vật liệu phát ra, và phân phối công việc cho các nữ công nhân, nhận được 1 1/2 penny cho mỗi sản phẩm. Trong đó, ít nhất 1/2 penny là phần của y, cô thợ may đáng thương kia chỉ được nhiều nhất là 1 penny. Những cô gái làm cra-vat mỗi ngày phải làm 16 giờ, một tuần chỉ được 4 1/2 shilling4*. Nhưng những cô gái may áo sơ-mi mới là cực khổ nhất, chỉ được 1 1/2 penny cho mỗi chiếc áo sơ-mi loại thường. Trước đây họ được 2-3 penny, nhưng từ khi nhà tế bần St. Pancras, do những người tư sản cấp tiến quản lí, lấy công là 1 1/2 penny một chiếc, th́ các cô thợ may đáng thương kia cũng buộc phải nhận giá ấy. Với loại áo sơ-mi vải mỏng thêu hoa, mỗi ngày họ phải làm mười tám giờ mới xong một chiếc, và được trả 6 penny. Vậy, theo các nữ công nhân và các thầu khoán, th́ dù phải làm việc căng thẳng suốt từ sáng sớm đến đêm khuya, những cô thợ may ấy mỗi tuần chỉ được không quá 2 1/2-3 shilling tiền công! Nhưng dă man bỉ ổi nhất là việc bắt các cô gái ấy phải kí quĩ một phần giá trị vật liệu mà họ được nhận, tất nhiên họ chỉ c̣n cách đem một phần vật liệu ấy đi cầm cố (người chủ cũng biết rơ điều đó), để sau này đi chuộc lại, và chịu lỗ một ít; nếu không chuộc lại được th́ họ sẽ bị đưa ra thẩm phán ḥa giải: tháng Mười một 1843, đă có một cô bị như thế. Tháng Tám 1844, lại có một thiếu nữ bất hạnh rơi vào trường hợp ấy, v́ chẳng biết làm sao, phải nhảy xuống kênh tự tử. Những cô thợ may ấy thường sống ở những gác xép nhỏ hẹp, hết sức nghèo khổ, và c̣n chật ních người; vào mùa đông, nguồn sưởi ấm gần như duy nhất chính là hơi nóng tự nhiên, tỏa ra từ cơ thể của những người sống ở đó. Tại đây, họ c̣ng lưng xuống làm việc, may suốt từ 4-5 giờ sáng tới tận nửa đêm; chỉ vài năm là sức khỏe của họ bị phá hoại hoàn toàn, tuổi c̣n trẻ mà đă sắp ĺa đời, ngay cả những nhu cầu bức thiết nhất cũng không được thỏa măn5*; trong khi đó th́ ở dưới đường phố, những cỗ xe lộng lẫy của bọn đại tư bản chạy vun vút, và có lẽ gần đâu đấy, một tên công tử bột khốn nạn nào đó đă thua bạc, với số tiền mà các cô thợ ấy có làm cả năm cũng không kiếm được.

T́nh cảnh giai cấp vô sản công nghiệp Anh là vậy. Nh́n vào đâu, ta cũng thấy cảnh bần cùng thường xuyên hoặc tạm thời, bệnh tật do điều kiện sống hoặc tính chất của bản thân lao động gây ra, và sự bại hoại đạo đức; ở đâu cũng thấy con người dần bị hủy hoại không ngừng, về tinh thần cũng như thể xác. Lẽ nào t́nh trạng ấy lại có thể kéo dài măi sao?

Không, nó không thể và sẽ không kéo dài. Công nhân, chiếm đại đa số trong nhân dân, không muốn như thế. Hăy nghe xem bản thân họ nói ǵ về t́nh trạng ấy.

Chú thích

1 "chính cống" (Chú thích của người dịch).

2 "nền dân chủ công nghiệp" (Chú thích của người dịch) .

3 "bệnh nghề nghiệp của thợ nhuộm" (Chú thích của người dịch).

4* Xem "Weekly Dispatch", ngày 17 tháng Ba 1844.

5* Thomas Hood là người có tài nhất trong các nhà thơ trào phúng của nước Anh hiện nay, và như mọi nhà thơ trào phúng khác, là người giàu ḷng nhân đạo, song chẳng có chút nghị lực tinh thần nào; đầu năm 1844, khi những bài viết mô tả t́nh cảnh khổ sở của các cô thợ may có đầy trên các báo, ông đă viết một bài thơ rất hay: "The Song of the Shirt" ("Bài ca áo sơ-mi"). Bài thơ ấy đă làm cho các cô con gái tư sản rơi bao nhiêu nước mắt cảm thương nhưng vô ích. V́ khuôn khổ cuốn sách có hạn, tôi không thể chép bài thơ đó vào đây. Nó được đăng lần đầu trên báo "Punch", sau đó th́ có mặt trên khắp các báo. Bây giờ th́ tờ báo nào cũng bàn luận về t́nh cảnh những cô thợ may, thế nên không cần trích dẫn riêng nữa.


[Chương trước]   [Mục lục]   [Chương sau]