F. Engels
T́nh cảnh giai cấp công nhân Anh

PHONG TRÀO CÔNG NHÂN

Dù tôi có đưa ra ít ví dụ hơn nữa, th́ mọi người vẫn phải đồng ư với tôi rằng: công nhân Anh không thể cảm thấy hạnh phúc trong t́nh cảnh của họ, cái t́nh cảnh mà ở đó, cả cá nhân cũng như toàn bộ giai cấp đều không thể sống, cảm giác và suy nghĩ như con người. V́ thế, công nhân phải đấu tranh, để thoát khỏi cái t́nh cảnh chỉ xứng với súc vật ấy, để có được một t́nh cảnh tốt hơn, hợp với con người hơn. Và họ không thể làm thế, nếu không tấn công vào lợi ích của giai cấp tư sản, lợi ích đó chính là ở chỗ bóc lột công nhân. Nhưng giai cấp tư sản lại bảo vệ lợi ích của ḿnh, với tất cả sức mạnh mà tài sản và chính quyền của chúng cho phép. Khi công nhân vừa mới tỏ ra muốn thoát khỏi t́nh cảnh hiện tại, th́ lập tức người tư sản trở thành kẻ thù công khai của họ.

Hơn nữa, công nhân lúc nào cũng thấy giai cấp tư sản coi họ như đồ vật và tài sản của chúng, chỉ điều này cũng đủ làm cho công nhân trở thành kẻ thù của giai cấp tư sản. Tôi đă đưa ra hàng trăm ví dụ, và có thể đưa ra hàng trăm ví dụ nữa, để chứng minh rằng: trong điều kiện hiện nay, chỉ nhờ có việc căm thù và chống lại giai cấp tư sản, th́ công nhân mới cứu văn được phẩm giá con người của ḿnh. Công nhân Anh có năng lực chống lại sự bạo ngược của bọn hữu sản một cách cực ḱ mănh liệt; đó là nhờ họ tự giáo dục ḿnh, đúng hơn là nhờ họ không được giáo dục, cũng như nhờ ḍng máu nóng của người Ireland ḥa trộn bên trong họ.

Công nhân Anh không c̣n là người Anh theo nghĩa thông thường: không phải thứ con buôn luôn tính toán như đồng bào tư sản của ḿnh, anh ta giàu t́nh cảm hơn nhiều; ở anh ta, tính khí lạnh lùng của người miền Bắc đă bị át đi, bởi ḷng nhiệt t́nh sôi nổi đă phát triển và chi phối anh ta, mà không bị trở ngại. Việc rèn luyện lí trí đă phát triển mạnh mẽ tính ích kỉ của người tư sản Anh, đă khiến sự ích kỉ trở thành nét tiêu biểu của y, làm cho toàn bộ t́nh cảm của y chỉ tập trung vào việc chạy đua kiếm tiền; công nhân không có sự rèn luyện lí trí ấy, thế nên nhiệt t́nh của họ cũng mạnh mẽ và kịch liệt như ở người nước ngoài. Ở công nhân, những đặc trưng dân tộc của người Anh đă mất đi.

Như ta đă thấy, ngoài việc đấu tranh chống lại t́nh cảnh của ḿnh, th́ công nhân không có chỗ nào khác để biểu lộ nhân cách của ḿnh nữa; thế nên đương nhiên là chính trong sự phản kháng ấy, công nhân đă biểu hiện những điều tốt đẹp nhất, cao quí nhất, nhân đạo nhất. Ta sẽ thấy là toàn bộ lực lượng và hoạt động của công nhân đều nhằm vào hướng này, và cả những cố gắng để có được một nền giáo dục xứng đáng với con người đều có quan hệ trực tiếp với điểm ấy. Dĩ nhiên, ta phải nói đến một vài hành vi cá biệt có tính bạo lực, thậm chí là thô bạo, nhưng không bao giờ nên quên rằng: ở Anh đang diễn ra một cuộc chiến tranh xă hội công khai; và nếu giai cấp tư sản thích dùng chiêu bài ḥa b́nh, thậm chí là bác ái, để tiến hành cuộc chiến ấy một cách đạo đức giả, th́ chỉ có vạch trần sự thật, lột bỏ cái mặt nạ đạo đức giả ấy, mới có lợi cho công nhân; bởi vậy, ngay cả những hành động bạo lực dữ dội nhất của công nhân, để chống lại giai cấp tư sản và tay sai của nó, cũng chỉ là biểu hiện công khai, không che đậy, của cái mà giai cấp tư sản đă làm một cách kín đáo và lén lút đối với công nhân.

Công nghiệp phát triển chưa được bao lâu, th́ cuộc đấu tranh của công nhân chống giai cấp tư sản đă nổ ra, và trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Ở đây tôi không thể nói tỉ mỉ về ư nghĩa lịch sử của những giai đoạn ấy đối với sự phát triển của nhân dân Anh; đấy là chủ đề của một tác phẩm khác. Tôi chỉ thuật lại những sự kiện cần thiết, để nói rơ t́nh cảnh của giai cấp vô sản Anh.

H́nh thức đầu tiên, thô sơ và ít hiệu quả nhất của sự đấu tranh là phạm tội. Công nhân phải sống nghèo khổ, bần cùng, lại thấy đời sống của kẻ khác khá hơn ḿnh; anh ta không hiểu: tại sao ḿnh lao động cho xă hội nhiều hơn bọn nhà giàu ăn không ngồi rồi, mà phải chịu thiếu thốn như thế. Và sự đói khổ đă thắng ḷng tôn kính cổ truyền của anh ta đối với quyền sở hữu, do đó anh ta ăn cắp. Ta đă thấy: cùng với sự phát triển của công nghiệp, những vụ phạm tội ngày càng tăng, số người bị bắt hàng năm tăng theo cùng tỉ lệ với số hàng bông được tiêu dùng.

Công nhân đă sớm nhận ra là làm thế th́ chẳng ích ǵ. Việc phạm tội chỉ là hành động đơn thương độc mă chống lại chế độ xă hội hiện tồn, với tư cách cá nhân; mà xă hội có thể dùng mọi sức mạnh để đối phó, và áp đảo kẻ địch đơn độc bằng ưu thế tuyệt đối. Hơn nữa, trộm cắp là h́nh thức đấu tranh thô sơ và vô ư thức nhất; thế nên riêng một việc đó không thể trở thành biểu hiện chung của dư luận công nhân, dù họ vẫn ngầm tán thành. Sự chống đối của giai cấp công nhân đối với giai cấp tư sản chỉ bắt đầu, khi công nhân dùng bạo lực để chống lại việc sử dụng máy móc, việc này đă xảy ra ở buổi đầu của cách mạng công nghiệp. Những nhà phát minh đầu tiên, như Arkwright và những người khác, đă bị thứ bạo lực ấy hăm hại, c̣n máy móc của họ th́ bị phá hủy; về sau lại nổ ra nhiều cuộc nổi dậy chống sử dụng máy móc, nó hầu như giống hệt với những cuộc bạo loạn của công nhân in vải hoa ở Bohemia tháng Sáu 1844: máy móc và công xưởng đều bị phá hủy.

H́nh thức phản kháng ấy cũng có tính cô lập, bị hạn chế ở những khu vực cá biệt, chỉ nhằm vào một mặt của các quan hệ xă hội hiện hành. Hơn nữa, ngay khi công nhân vừa giành được thắng lợi chốc lát, th́ toàn bộ sức nặng của quyền lực xă hội liền đè lên những kẻ phạm tội không có ǵ tự vệ, và mặc sức trừng phạt họ, c̣n máy móc th́ lại vẫn được dùng. Phải t́m ra một h́nh thức đấu tranh mới.

Khi đó, nghị viện cũ (trước khi cải cách), do đảng Tory nắm, đă thông qua một đạo luật để giúp công nhân; nó sẽ chẳng bao giờ được Hạ viện sau này thông qua, khi mà dự luật cải cách đă thừa nhận sự đối lập giữa tư sản với vô sản, và đưa giai cấp tư sản lên hàng thống trị. Được thông qua năm 1824, nó đă xóa bỏ mọi đạo luật trước kia cấm công nhân liên kết lại để bảo vệ lợi ích của ḿnh. Thế là công nhân có quyền lập hội, một quyền mà trước kia chỉ quí tộc và tư sản mới có. Thực ra th́ trong công nhân vẫn thường có những hội bí mật, nhưng chúng không thể có thành tích ǵ đáng kể. Như ở Scotland, theo Symons ("Nghề thủ công và thợ thủ công", tr. 137 và các trang sau), năm 1812 đă có tổng băi công của thợ dệt ở Glasgow, do một hội bí mật tổ chức. Năm 1822 lại có băi công, có hai công nhân, v́ không chịu vào hội nên đă bị coi là phản bội giai cấp ḿnh; họ đều bị tạt acid sulfuric vào mặt, do đó bị mù. Năm 1818, hội thợ mỏ ở Scotland đă đủ mạnh để tiến hành tổng băi công. Mỗi hội viên của hội này đă thề trung thành và giữ bí mật, có danh sách hội viên, quĩ hội, sổ sách và các chi hội địa phương. Nhưng tính chất bí mật của toàn bộ hoạt động đă gây trở ngại cho sự phát triển của các hội ấy. Đến năm 1824, công nhân có quyền tự do lập hội, th́ những hội ấy lan rộng rất nhanh trên khắp nước Anh, và có ảnh hưởng lớn. Trong mọi ngành lao động đều thành lập các công liên như thế, với chủ trương công khai là bảo vệ từng công nhân riêng lẻ, chống sự bạo ngược và nhẫn tâm của giai cấp tư sản. Mục đích của những công liên ấy là: qui định tiền lương, thương lượng với giới chủ trên tư cách là một lực lượng, điều chỉnh tiền lương theo lợi nhuận của chủ, tăng lương khi có thể, và giữ một mức lương bằng nhau cho một nghề ở mọi nơi. Do đó, họ thường đấu tranh đ̣i các nhà tư bản thực hiện một mức lương chung, và tuyên bố băi công với người nào không chấp nhận mức đó. Thứ nữa, công liên hạn chế việc tuyển thợ học việc, để giữ vững nhu cầu về nhân công của bọn tư bản, từ đó giữ vững tiền lương; cố gắng hết sức chống các thủ đoạn hạ thấp tiền lương của chủ xưởng, như việc dùng máy móc và công cụ mới, v.v.; cuối cùng là giúp tiền cho công nhân thất nghiệp. Việc này được tiến hành trực tiếp bằng tiền quĩ, hoặc gián tiếp bằng việc cấp một cái thẻ xác nhận là "người trong hội" cho mỗi công nhân; người có thẻ đó, khi đi từ nơi này tới nơi khác, sẽ được bạn cùng nghề giúp đỡ và chỉ cho nơi nào dễ t́m việc. Cảnh sống lang thang đó của công nhân được gọi là "the tramp", c̣n anh công nhân đi lang thang ấy được gọi là tramper. Để đạt những mục đích nói trên, công liên cử một chủ tịch và một thư kí ăn lương, v́ rơ ràng là không chủ xưởng nào thuê những người ấy; và lập một ban chấp hành, để thu hội phí hàng tuần, đảm bảo rằng số tiền ấy được dùng đúng với mục đích của công liên. Khi có thể và có lợi, các công liên ở từng khu liên kết thành một liên hiệp công liên, có tổ chức hội nghị đại biểu định ḱ. Trong vài trường hợp riêng biệt, người ta đă thử tập hợp mọi công nhân của một ngành vào một công liên lớn của cả nước Anh; cũng có nhiều lần, đầu tiên là vào năm 1830, người ta đă thử lập một liên hiệp công nhân thống nhất toàn quốc, đồng thời mỗi ngành nghề vẫn giữ tổ chức riêng của ḿnh. Nhưng các liên hiệp ấy không tồn tại lâu, thậm chí rất ít được thành lập; v́ phải có một cao trào đặc biệt rộng khắp, th́ chúng mới có thể ra đời và hoạt động hiệu quả.

Để thực hiện mục đích của ḿnh, các công liên thường dùng những biện pháp sau: nếu có một vài chủ xưởng không thừa nhận mức lương do công liên qui định, th́ công liên cử một đoàn đại biểu tới gặp họ, hoặc gửi cho họ một đơn thỉnh nguyện (ta thấy là công nhân biết coi trọng quyền lực chuyên chế tuyệt đối của chủ xưởng trong vương quốc nhỏ của y). Nếu làm thế không có kết quả, th́ công liên ra lệnh đ́nh công: tất cả công nhân giải tán về nhà. Nếu chỉ có một vài chủ xưởng không chịu theo mức lương do công liên đề xuất, th́ cuộc băi công đó (gọi là turn-out hoặc strike) chỉ là cục bộ; nếu tất cả các chủ xưởng trong một ngành đều làm thế, th́ cuộc băi công trở thành tổng băi công. Đó là những thủ đoạn hợp pháp của công liên: chỉ là hợp pháp nếu cuộc băi công được báo trước, thực tế th́ không phải lúc nào cũng thế. Nhưng nếu có công nhân chưa tham gia công liên, hoặc rút khỏi công liên v́ lợi ích trước mắt mà chủ xưởng ban cho, th́ biện pháp hợp pháp ấy rất ít kết quả. Đặc biệt là với các cuộc băi công cục bộ, chủ xưởng rất dễ tuyển dụng những con chiên ghẻ ấy (gọi là knobstick1), và vô hiệu hóa các nỗ lực của những công nhân công liên. Các hội viên công liên thường đe dọa, chửi mắng, đánh đập, và dùng các biện pháp hành hung khác; tóm lại là uy hiếp bằng mọi cách, để đối phó với bọn knobstick. Do đó bọn này kiện đến ṭa án, và v́ kẻ bảo vệ pháp luật lại là giai cấp tư sản đang nắm chính quyền; thế nên chỉ cần có một hành vi phạm pháp, chỉ cần có một hội viên công liên bị xử tội, là lực lượng của công liên hầu như bị phá vỡ.

Lịch sử của các công liên ấy là một chuỗi dài những thất bại của công nhân, có xen kẽ vài thắng lợi cá biệt. Dĩ nhiên là mọi cố gắng ấy đều không thay đổi được qui luật kinh tế, quyết định mức lương theo quan hệ giữa cung và cầu trên thị trường lao động. V́ vậy công liên đành chịu bất lực trước những nguyên nhân quan trọng nhất tác động đến mối quan hệ ấy. Khi có khủng hoảng thương nghiệp, th́ công liên phải tự động hạ mức lương xuống, hoặc bị giải tán hoàn toàn; khi nhu cầu lao động tăng nhiều, th́ nó cũng không thể đ̣i lương cao hơn mức mà sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản qui định. Nhưng với những nguyên nhân ít quan trọng hơn, có tính cục bộ, th́ công liên có thế lực thực sự. Nếu không ngại cuộc đấu tranh tập trung của số đông công nhân, th́ chủ xưởng đă hạ dần mức lương xuống để thu lời thêm; hơn nữa, việc cạnh tranh với các chủ xưởng khác cũng buộc y phải làm vậy, thế nên tiền lương sẽ mau chóng hạ xuống mức tối thiểu. Sự cạnh tranh đó giữa các chủ xưởng với nhau trong điều kiện b́nh thường có thể bị hạn chế do sự đấu tranh của công nhân. Mỗi chủ xưởng đều biết rằng mỗi lần hạ tiền lương, nếu không phải v́ những hoàn cảnh mà các chủ xưởng khác cũng phải chịu, th́ đều dẫn tới băi công; mà băi công th́ chắc chắn là thiệt cho y, v́ khi đó tư bản mà y bỏ vào kinh doanh sẽ không sinh lời được, máy móc th́ bị han rỉ. Đồng thời, y cũng không chắc là có hạ được tiền lương hay không; mà y lại biết rơ là nếu ḿnh thành công, th́ kẻ cạnh tranh sẽ bắt chước ngay, sẽ hạ giá sản phẩm của họ, và lợi nhuận mà y hi vọng sẽ không c̣n nữa. Ngoài ra, khi khủng hoảng kết thúc, dĩ nhiên là các công liên có thể đ̣i tăng lương nhanh hơn so với khi không có ai can thiệp. Khi mà cạnh tranh chưa bắt chủ xưởng phải tăng lương th́ họ sẽ không tăng, nhưng v́ có công liên nên khi thị trường khá lên th́ bản thân công nhân sẽ đ̣i tăng lương; họ có thể lợi dụng việc bọn chủ xưởng đang thiếu nhân công, và tổ chức băi công để buộc chúng phải tăng lương. Nhưng như tôi đă nói, công liên lại bất lực trước những nguyên nhân tương đối quan trọng ảnh hưởng đến thị trường lao động. Với t́nh h́nh như thế, đói khát buộc công nhân phải dần trở lại làm việc, trong bất ḱ điều kiện nào; và chỉ cần vài người làm thế là lực lượng của công liên đă bị phá vỡ, v́ khi trên thị trường vẫn c̣n một lượng hàng hóa dự trữ, chính là các knobstick ấy, th́ giai cấp tư sản có thể thoát khỏi các hậu quả nghiêm trọng nhất của sự gián đoạn sản xuất. Quĩ của công liên rất mau hết v́ nhiều người cần được giúp đỡ, những chủ hàng bán lẻ dần cũng dần không bán chịu với lăi cao nữa, và sự túng thiếu buộc công nhân lại phải chui đầu vào cái ách của giai cấp tư sản. Nhưng các chủ xưởng, chính v́ lợi ích của họ (tất nhiên là do sự đấu tranh của công nhân nên điều này mới thành lợi ích của họ), cũng cần tránh những cuộc hạ lương không cần thiết; c̣n công nhân th́ thấy rơ rằng mỗi lần hạ lương, dù là do t́nh h́nh thị trường gây ra, cũng làm xấu thêm t́nh cảnh của họ, nên họ hết sức đề pḥng điều ấy; v́ thế, hầu hết các cuộc băi công đều kết thúc bằng thất bại của công nhân. Ai đó sẽ hỏi: sao công nhân lại băi công, khi mà biện pháp ấy rơ ràng là vô ích như thế? Đơn giản v́ công nhân có nghĩa vụ chống lại việc hạ tiền lương, thậm chí là chống lại tính tất yếu của việc hạ tiền lương đó; v́ họ nhất định phải tuyên bố rằng: là con người, họ sẽ không chịu khuất phục trước hoàn cảnh, mà chính hoàn cảnh mới phải chịu khuất phục trước bản thân con người họ; v́ sự im lặng của công nhân tức là thỏa hiệp với hoàn cảnh, tức là thừa nhận rằng giai cấp tư sản có quyền bóc lột công nhân trong thời ḱ thương nghiệp phồn vinh, c̣n trong thời ḱ thất bát th́ có quyền bỏ mặc công nhân chết đói. Chừng nào công nhân chưa mất hết nhân cách th́ họ c̣n phải đấu tranh chống lại điều đó, và họ đấu tranh như thế mà không dùng cách nào khác; v́ họ là những người Anh, những người thực tiễn, họ đấu tranh bằng hành động; chứ không như những người Đức ưa lí luận, chỉ cần cho kháng nghị của ḿnh vào biên bản, đưa vào ad acta2, rồi về nhà ngủ, và bản kháng nghị cũng ngủ yên, như chính người kháng nghị. Sự kháng nghị tích cực của người Anh dĩ nhiên là có hiệu lực: nó hạn chế được ḷng tham của giai cấp tư sản trong một phạm vi nhất định, làm cho sự đấu tranh của công nhân chống quyền lực vô hạn về xă hội và chính trị của giai cấp có của không bị lắng xuống; nó cũng chứng minh rơ cho công nhân rằng: để đập tan thế lực của giai cấp tư sản, th́ ngoài công liên và băi công ra, công nhân cần có ǵ đó hơn thế nữa. Nhưng ư nghĩa thực sự của các công liên, và những cuộc băi công do chúng tổ chức, là ở chỗ: đó là những cố gắng đầu tiên của công nhân để tiêu diệt cạnh tranh. Điều đó nghĩa là công nhân đă hiểu rằng: sự thống trị của giai cấp tư sản chỉ xây dựng được trên sự cạnh tranh giữa công nhân với nhau, trên sự chia rẽ của giai cấp vô sản, trên sự đối lập giữa những loại công nhân này với những loại công nhân khác. Và chính v́ công liên cố gắng chống lại cạnh tranh, sợi dây thần kinh sống c̣n của chế độ xă hội hiện tại; nên chế độ xă hội ấy mới coi nó là nguy hiểm đến thế, dù sự cố gắng kia vẫn c̣n phiến diện và hạn chế. Để tiến công giai cấp tư sản, cùng với đó là toàn thể chế độ xă hội hiện tại, công nhân không thể nhằm vào chỗ nào hiểm yếu hơn chỗ ấy. Khi công nhân không cạnh tranh với nhau nữa, khi tất cả đều quyết tâm không để giai cấp tư sản bóc lột ḿnh nữa, th́ vương quốc của chế độ tư hữu đến ngày tận số. Tiền lương chỉ phụ thuộc vào quan hệ cung - cầu, vào t́nh h́nh ngẫu nhiên trên thị trường lao động; đó là v́ cho đến bây giờ, công nhân vẫn để người ta coi ḿnh là những sự vật, có thể đem mua bán. Khi nào công nhân quyết tâm không để người ta mua bán họ nữa, khi nào họ thấy rơ giá trị của lao động đúng ra là ǵ; khi công nhân không c̣n là đồ vật nữa, mà là con người, không chỉ có sức lao động mà c̣n có ư chí; th́ lúc ấy, toàn bộ kinh tế chính trị học hiện đại, và qui luật tiền lương, sẽ tận số. Tất nhiên, nếu công nhân chỉ muốn tiêu diệt sự cạnh tranh lẫn nhau, th́ qui luật tiền lương rồi sẽ lại có hiệu lực dần. Nhưng công nhân không muốn từ bỏ phong trào từ trước đến nay của ḿnh, họ không muốn khôi phục sự cạnh tranh lẫn nhau; vậy th́ họ không thể dừng lại ở đó, họ phải tiến lên. Tính tất yếu bắt họ phải tiêu diệt sự cạnh tranh nói chung, chứ không chỉ tiêu diệt một phần của sự cạnh tranh, và họ sẽ làm vậy. Công nhân đă ngày càng hiểu rơ là cạnh tranh mang lại cho họ những tai hại ǵ, họ c̣n hiểu hơn giai cấp tư sản rằng cạnh tranh giữa những người hữu sản cũng dẫn đến khủng hoảng thương nghiệp, do đó cũng có hại cho công nhân, thế nên cũng phải tiêu diệt sự cạnh tranh ấy. Họ sẽ mau chóng hiểu rằng ḿnh phải làm việc đó như thế nào.

Không cần chứng minh rằng công liên đă góp phần tăng cường mạnh mẽ ḷng căm thù và phẫn nộ của công nhân đối với giai cấp có của. Thế nên trong các thời ḱ đặc biệt sôi động, th́ từ các công liên ấy, bất kể những người lănh đạo có đồng ư hay không, đă xuất hiện một số hành động cá biệt; chỉ có thể được giải thích bằng sự thù ghét cực độ, và ḷng say sưa man dại vô bờ. Trong đó có trường hợp đổ acid sulfuric làm bỏng người, đă nói tới ở trên; và hàng loạt những sự việc khác, mà tôi chỉ kể ra vài vụ. Trong phong trào công nhân mănh liệt năm 1831, Ashton, một chủ xưởng trẻ ở Hyde, gần Manchester, đă bị bắn chết vào một buổi tối ở ngoài đồng, và không t́m ra hung thủ. Không nghi ngờ ǵ nữa, đó là một hành vi báo thù của công nhân. Các vụ đốt xưởng và âm mưu gây nổ rất thường thấy. Ngày thứ sáu, 29 tháng Chín 1843, có người mưu toan gây nổ xưởng cưa của ông Padgin ở phố Howard, thuộc Sheffield. Vật dụng là một ống sắt nhồi đầy thuốc nổ và bịt kín, gây thiệt hại khá lớn. Ngày hôm sau, 30 tháng Chín, ở Shales Moor, gần Sheffield, có một vụ tương tự, ở xưởng làm dao giũa Ibbetson. Ông Ibbetson bị công nhân ghét v́ tích cực tham gia các phong trào tư sản, trả lương thấp, chuyên môn thuê knobstick, và lợi dụng đạo luật về người nghèo để đạt lợi riêng (ở cuộc khủng hoảng năm 1842, y bắt công nhân phải nhận lương thấp, báo cho cơ quan trợ giúp người nghèo biết tên những người không chấp nhận hạ lương, nói là họ có thể có công việc mà không muốn làm, do đó họ không đáng được giúp đỡ). Vụ nổ gây thiệt hại khá lớn, và tất cả các công nhân tới xem vụ việc đều chỉ tiếc là "không nổ tung cả xí nghiệp cho rồi". Ngày thứ sáu, 6 tháng Mười 1843, có vụ mưu đốt công xưởng Ainsworth & Crompton ở Bolton nhưng không gây được thiệt hại; đó là lần thứ ba hoặc thứ tư mưu đốt công xưởng ấy, trong một thời gian rất ngắn. Trong phiên họp của hội đồng thành phố Sheffield, ngày thứ tư, 10 tháng Giêng 1844, ủy viên cảnh sát đă tŕnh ra một quả tạc đạn bằng gang, chứa bốn pound thuốc nổ, có ng̣i đă đốt nhưng bị tắt, được t́m thấy trong xưởng của ông Kitchen ở phố Earl, thuộc Sheffield. Chủ nhật, 20 tháng Giêng 1844, nhà máy xẻ gỗ Bentley & White ở Bury (Lancashire) bị nổ do một gói thuốc nổ ném vào, thiệt hại khá nặng. Ngày thứ năm, 1 tháng Hai 1844, xưởng làm bánh xe Soho ở Sheffield bị đốt cháy sạch. Trong bốn tháng đă có sáu vụ như thế, tất cả đều do ḷng căm thù cực độ của công nhân đối với chủ gây nên. Dưới chế độ xă hội như thế nào, mới có thể xảy ra những vụ đó, th́ chẳng cần nói nữa. Những chuyện này đủ chứng tỏ rằng ở Anh, cuộc chiến tranh xă hội đă nổ ra và đang được tiến hành, ngay cả trong thời ḱ thương nghiệp phồn vinh, như cuối năm 1843. Thế mà giai cấp tư sản Anh vẫn chưa tỉnh ngộ! Nhưng ồn ào nhất là vụ án về cái gọi là Thugs3* ở Glasgow, mà ṭa án bồi thẩm của thành phố ấy đă xét xử từ ngày 3-11 tháng Giêng 1838. Qua cuộc thẩm vấn, người ta thấy rằng công liên công nhân kéo sợi, thành lập từ năm 1816, đă có được sự đoàn kết và lực lượng thật hiếm có. Hội viên công liên phải thề phục tùng quyết định của đa số. Mỗi khi có băi công, sẽ xuất hiện một ban chấp hành bí mật, mà đa số hội viên không biết, có toàn quyền sử dụng quĩ của công liên. Ban chấp hành ấy treo thưởng cho những vụ ám sát knobstick và chủ xưởng đáng căm thù, cũng như những vụ đốt xưởng. Ví dụ, một xưởng đă bị công nhân đốt sạch v́ thuê các knobstick nữ vào làm, thay cho công nhân kéo sợi nam; mẹ của một trong những thiếu nữ ấy, tên là McPherson, đă bị giết, hai hung thủ được công liên xuất tiền đưa sang Mĩ. Ngay từ năm 1820, một knobstick tên là McQuarry bị bắn bị thương, công liên đă thưởng cho người bắn 15 Bảng. Sau đó là một người tên là Graham bị bắn bị thương, người bắn được 20 Bảng, nhưng lại bị bắt và bị đi đày chung thân. Sau cùng, tháng Năm 1837, tại vài xưởng ở Oatbank và Mile End đă xảy ra rối loạn v́ băi công, có chừng một tá knobstick bị đánh đau; tháng Bẩy cùng năm đó, vụ việc vẫn chưa yên, một knobstick tên là Smith bị đánh chết. Bấy giờ, ban chấp hành bị bắt và bị thẩm vấn; chủ tịch và các ủy viên cốt cán bị truy tố v́ tội tham gia những tổ chức phi pháp, hành hung knobstick, đốt công xưởng của James và Francis Wood, bị kết tội và chịu án đi đày bảy năm. Những người Đức lương thiện chúng ta sẽ nói ǵ về chuyện này?4*

Giai cấp có của, đặc biệt là bộ phận công nghiệp của nó, v́ tiếp xúc trực tiếp với công nhân, nên chống các công liên kịch liệt nhất; chúng không ngừng ra sức dùng rất nhiều luận điểm để chứng minh với công nhân rằng công liên là vô dụng, theo kinh tế chính trị học th́ những luận điểm ấy hoàn toàn đúng, nhưng chính v́ thế mà chúng lại là sai trên một mặt khác, và chúng hoàn toàn vô hiệu đối với tư tưởng của công nhân. Chính cái nhiệt t́nh đó của giai cấp tư sản đă chứng tỏ rằng việc này rất có quan hệ với lợi ích của chúng; không nói đến những tổn thất trực tiếp do băi công gây nên, th́ t́nh h́nh là thế này: cái ǵ chui vào túi chủ xưởng tất là phải móc từ túi công nhân ra. Dù công nhân không hiểu rơ rằng công liên có thể hạn chế phần nào cuộc đua hạ tiền lương của bọn chủ, nhưng họ biết rằng sự tồn tại của công liên là có hại cho kẻ địch của ḿnh, là các chủ xưởng, thế nên họ không rời bỏ công liên. Trong chiến tranh, bên này bị hại th́ bên kia được lợi, và v́ giữa công nhân với chủ xưởng đang có chiến tranh, nên họ cũng hành động như bọn vua chúa chí tôn, khi chúng túm tóc nhau. Kẻ địch điên cuồng nhất của công liên, vượt xa mọi nhà tư sản khác, cũng lại là ông bạn của chúng ta, bác sĩ Ure. Ông ta tức đến sùi bọt mép khi nói đến "ṭa án bí mật" của thợ kéo sợi bông, đội ngũ công nhân lớn mạnh nhất; cái ṭa án cho rằng ḿnh có thể làm bó tay bất ḱ tên chủ xưởng nào không tuân lệnh, "do đó làm cho những người đă bao năm nuôi nấng công nhân bị phá sản". Ông ta c̣n nói đến cái thời "mà đầu óc phát minh và quả tim sôi động của công nghiệp sẽ bị nô dịch bởi những kẻ bề dưới không vâng lời". Ôi, Menenius Agrippa5 hiện đại ơi! Tiếc rằng công nhân Anh không dễ bị chuyện ngụ ngôn làm cho yên ḷng như những người b́nh dân La Mă! Cuối cùng, Ure c̣n kể một câu chuyện lí thú sau: trước kia, có thời những thợ kéo sợi thô trên máy mule đă lạm dụng bừa băi sức mạnh của họ. Tiền lương cao không khiến họ biết ơn chủ xưởng, và lo trau dồi trí tuệ (tất nhiên là trong những môn khoa học không có hại, thậm chí có lợi cho giai cấp tư sản); trái lại, nó làm cho họ trở nên ngạo mạn, và cho phép họ bỏ tiền ra, để cổ vũ tinh thần nổi loạn trong những cuộc băi công hoàn toàn vô lối, đang nổ ra liên tiếp trong các công xưởng. Khi những sự kiện bất hạnh ấy xảy ra ở Hyde, Dukinfield và các vùng lân cận, những chủ xưởng ở đó sợ sự cạnh tranh của người Pháp, người Bỉ và người Mĩ cướp mất thị trường, đă t́m đến xưởng chế tạo máy của Sharp, Robert và công ti; xin ông Sharp trổ tài phát minh của ḿnh, làm ra một máy mule tự động, để "cứu nền sản xuất khỏi sự nô dịch cay đắng, cũng như sự hủy diệt sắp tới".

"Mấy tháng sau, một chiếc máy được chế tạo xong, h́nh như nó có đủ cả trí tuệ, cảm giác và sự khéo léo của một công nhân thành thạo; dù c̣n trong trứng nước, cái máy ấy đă biểu hiện một nguyên lí làm việc mới; và khi đă hoàn chỉnh, nó sẽ sẵn sàng đảm nhận chức năng của một thợ kéo sợi lành nghề. Thế là con người sắt (công nhân gọi nó như thế), theo mệnh lệnh của Minerva, đă sinh ra từ tay của Prometheus hiện đại. Vật sáng tạo này có sứ mệnh khôi phục trật tự giữa các giai cấp công nghiệp, và đảm bảo sự thống trị của người Anh ở ngành đó. Tin tức về cái ḱ công kiểu Hercules ấy đă gây sợ hăi trong công liên, và dù chưa ra khỏi nôi, vật sáng tạo ḱ diệu đó đă bóp chết con Hydra vô chính phủ".

Tiếp đó, Ure chứng minh rằng việc phát minh cái máy có thể in cùng lúc 4-5 màu là do vụ bạo động của công nhân in vải hoa gây ra, sự ương bướng của công nhân hồ sợi ở công xưởng dệt th́ dẫn tới sự ra đời của một cái máy hồ sợi hoàn thiện hơn, và một số sự kiện tương tự nữa6*. Chỉ trước đó mấy trang, chính ông Ure ấy c̣n cố sức chứng minh dài ḍng rằng việc sử dụng máy móc là có lợi cho công nhân! Nhưng không chỉ có một ḿnh Ure; trong báo cáo về công xưởng, chủ xưởng Ashworth và nhiều người khác cũng không bỏ qua cơ hội nào để thể hiện ḷng phẫn nộ của họ đối với công liên. Đối với mọi phong trào mà ḿnh không hiểu được, những nhà tư sản thông minh ấy, cũng như một số chính phủ, liền đổ tội cho ảnh hưởng của những kẻ cổ động có dụng ư xấu; những kẻ âm mưu, mị dân, hay phàn nàn, và bọn thanh niên. Họ khẳng định: các nhà hoạt động của công liên phải quan tâm đến việc cổ động, v́ họ sống nhờ vào tiền lương của công liên; làm như rằng không phải chính giai cấp tư sản đă bắt công liên phải trả lương cho những người ấy, v́ các chủ xưởng chẳng chịu thuê họ bao giờ!

Những cuộc băi công xảy ra rất nhiều là minh chứng rơ nhất về việc cuộc chiến tranh xă hội đă lan tràn trên toàn nước Anh đến mức nào. Không có tuần nào, thậm chí hầu như không có ngày nào là không xảy ra băi công ở nơi nào đó; khi th́ v́ tiền công giảm, khi th́ v́ chủ xưởng không chịu tăng lương, khi th́ v́ chủ xưởng thuê knobstick, khi th́ v́ chủ xưởng không ngừng đánh chửi hay cư xử ác nghiệt, khi th́ v́ việc sử dụng máy mới, và hàng trăm nguyên nhân khác. Những cuộc băi công ấy mới chỉ là những trận đánh nhỏ ở tiền tiêu, thỉnh thoảng mới trở thành những trận chiến tương đối lớn; dù chưa giải quyết được ǵ, nhưng chúng đă chứng minh rơ ràng rằng, trận đánh quyết định giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản đang đến gần. Băi công là trường học quân sự của công nhân, ở đó, họ đă chuẩn bị cho cuộc đấu tranh vĩ đại, mà nay đă trở thành không thể tránh khỏi; băi công là tuyên ngôn của từng ngành trong nền công nghiệp, về việc tham gia phong trào công nhân to lớn; nếu đọc hết các số của tờ "Northern Star" trong một năm, tờ báo duy nhất đăng tin về mọi phong trào của giai cấp vô sản, th́ có thể thấy rằng tất cả công nhân ở thành phố và nông thôn đă họp thành công liên, và thỉnh thoảng đă tổng băi công để phản kháng sự thống trị của giai cấp tư sản. Với tính chất là trường học đấu tranh th́ không có ǵ hơn được băi công; ở đó, ḷng dũng cảm đặc biệt của người Anh càng được phát huy. Ở lục địa người ta thường cho rằng: người Anh, nhất là công nhân, đều nhát gan, và họ không thể làm cách mạng; đó là v́ người Anh dường như đă yên phận dưới chế độ tư sản, không như người Pháp lúc nào cũng sẵn sàng nổi loạn. Ư kiến đó hoàn toàn sai. Về dũng cảm th́ công nhân Anh không kém bất ḱ ai; họ cũng sôi nổi như người Pháp, nhưng họ đấu tranh bằng cách khác. Người Pháp có bản tính chính trị, họ đấu tranh chống những tệ hại xă hội theo kiểu chính trị. C̣n người Anh coi chính trị chỉ là để phục vụ lợi ích riêng của xă hội tư sản, thế nên họ không đấu tranh chống chính phủ, mà trực tiếp chống giai cấp tư sản; và lúc này, cuộc đấu tranh ấy chỉ có thể có hiệu quả bằng cách thức ḥa b́nh. Do công nghiệp đ́nh đốn và tiếp đó là nghèo khổ; nên năm 1834, ở Lyon đă nổ ra cuộc khởi nghĩa, đ̣i thành lập nước cộng ḥa; c̣n năm 1842, ở Manchester đă nổ ra cuộc tổng băi công, đ̣i Hiến chương nhân dân và tăng lương. Nhưng so với khởi nghĩa, băi công cũng đ̣i hỏi dũng cảm, thậm chí là dũng cảm hơn nhiều; và c̣n cần quyết tâm to lớn và kiên quyết hơn nhiều, điều ấy rất rơ ràng. Thật thế, với các công nhân đă từng trải qua và hiểu rơ cảnh nghèo khổ, th́ việc họ và vợ con đối mặt với việc đó; cùng nhau chịu đựng đói rét, thiếu thốn hàng tháng ṛng, mà vẫn kiên định, không lay chuyển; đó không phải là chuyện nhỏ. Công nhân Anh thà chịu chết dần v́ đói, hàng ngày phải nh́n vợ con đói khổ, biết chắc là sau này giai cấp tư sản sẽ báo thù, họ thà chịu tất cả chứ không cúi đầu dưới ách áp bức của giai cấp có của; chết chóc hoặc tù đày, những thứ đe dọa những người cách mạng Pháp, đă là cái ǵ so với các việc kia! Sau đây ta sẽ thấy một ví dụ về ḷng dũng cảm ngoan cường không ǵ thắng được của công nhân Anh, chỉ đến khi phản kháng đă trở thành vô ích và vô nghĩa, th́ họ mới đầu hàng trước bạo lực. Chính trong cái tinh thần kiên nhẫn điềm tĩnh ấy, trong sự quyết tâm bền bỉ để vượt qua hàng trăm thử thách mỗi ngày ấy, công nhân Anh đă tỏ rơ cái khía cạnh quí nhất của tính cách họ. Những con người đă chịu đựng nhiều đến thế để bẻ găy sự phản kháng của một tên tư sản độc nhất, th́ cũng có thể bẻ găy lực lượng của toàn bộ giai cấp tư sản. Nhưng ngoài các việc đó, công nhân Anh cũng rất nhiều lần tỏ ra dũng cảm. Cuộc băi công năm 1842 không thu được nhiều kết quả hơn, một phần v́ công nhân bị giai cấp tư sản ép phải làm việc đó; một phần v́ họ chưa nhận thức rơ, cũng như chưa đoàn kết nhất trí, về mục đích của băi công. Nhưng ở những trường hợp khác, khi đă có mục đích xă hội rơ ràng, th́ họ tỏ ra rất dũng cảm. Chưa nói đến cuộc khởi nghĩa năm 1839 ở Wales, th́ vào tháng Năm 1843, khi tôi đang ở Manchester, tại đây đă nổ ra một cuộc chiến thực sự. Một nhà máy gạch (Pauling & Henfrey) tăng kích cỡ viên gạch, và tất nhiên là bán viên gạch lớn hơn với giá cao hơn, nhưng không tăng lương; công nhân đ̣i tăng lương bị cự tuyệt nên họ đ́nh công, công liên cũng tuyên bố tẩy chay hăng ấy. Nhưng chủ xưởng đă bỏ nhiều công sức để thuê knobstick, cũng như công nhân ở các vùng lân cận. Đối với những người ấy, lúc đầu công liên chỉ đe dọa. Để bảo vệ nhà máy, công ti thuê mười hai tên đă từng đi lính hoặc làm cảnh sát, và phát súng cho chúng. V́ đe dọa không có hiệu quả nên một đêm, vào mười giờ, một toán công nhân gạch, bố trí thành đội h́nh chiến đấu, với hàng đầu có súng, đă tấn công nhà máy, vốn chỉ nằm cách trại lính bộ binh gần 400 bước7*. Công nhân tiến vào khu vực nhà máy, thấy bọn bảo vệ là bắn ngay, giẫm nát gạch phơi ở đất, xô đổ những đống gạch khô, gặp cái ǵ cũng phá hủy; họ lọt vào một ngôi nhà, đập phá mọi đồ đạc, và đánh vợ của một đốc công ở đó. Lúc này, bọn bảo vệ nấp sau một hàng rào, được che chắn, và có thể bắn mà không bị vướng ǵ. Những người tấn công dừng lại trước một ḷ gạch đang bị đốt, ánh lửa chiếu vào họ rất rơ; thế nên họ trở thành bia đỡ đạn cho địch, c̣n bản thân họ chỉ bắn hú họa. Tuy thế hai bên vẫn bắn nhau hơn nửa giờ, cho đến lúc công nhân hết đạn, và đạt được mục đích của cuộc tấn công, là phá hết những ǵ có thể trong nhà máy. Bấy giờ quân đội đến, công nhân rút về Eccles (cách Manchester ba dặm). Lúc sắp đến Eccles th́ họ điểm danh theo số hiệu của mỗi người trong toán, để rồi giải tán, đúng ra là chỉ để rơi vào tay bọn cảnh sát từ bốn phía ập lại. Số người bị thương hẳn là rất nhiều, nhưng người ta chỉ biết số người bị bắt thôi. Một công nhân trúng ba viên đạn vào đùi, chân và vai; mà vẫn lê đi được hơn bốn dặm. Những người đó đă tỏ ra rằng họ cũng có dũng khí cách mạng và không sợ súng đạn. Khi một đám quần chúng tay không tấc sắt, mà chính họ cũng không biết ḿnh muốn ǵ, đă bị bao vây ở một băi chợ, chỉ có mấy tên long kị binh và cảnh sát đứng giữ các lối ra cũng đủ để trấn áp, như việc đă xảy ra năm 1842, th́ điều đó không hề chứng minh được rằng quần chúng thiếu dũng cảm; v́ lúc ấy, dù không có bọn tay sai của chính quyền nhà nước, tức là chính quyền tư sản, th́ quần chúng cũng không làm nên ǵ cả. Ở đâu mà nhân dân có mục tiêu rơ ràng, th́ họ tỏ ra có đầy đủ dũng khí; ví dụ cuộc tấn công vào xưởng Birley, sau này người ta phải dùng cả pháo binh để bảo vệ xưởng ấy.

Nhân đây, xin có vài lời về tính thiêng liêng của pháp luật ở Anh. Với người tư sản, dĩ nhiên pháp luật là thần thánh, v́ pháp luật ấy là do nó đặt ra, được ban bố với sự đồng ư của nó, để bảo vệ và làm lợi cho nó. Người tư sản hiểu rằng, ngay cả khi có một đạo luật cá biệt gây hại cho nó, th́ toàn bộ hệ thống pháp luật vẫn là để bảo vệ lợi ích của nó; và trên hết là tính thiêng liêng của pháp luật, tính bất khả xâm phạm của trật tự, vốn được một nhóm người trong xă hội qui định một cách tích cực theo ư chí của ḿnh, và được một nhóm người khác chấp nhận một cách tiêu cực, đó vẫn là trụ cột vững chắc nhất cho địa vị xă hội của nó. Người tư sản Anh thấy bản thân ḿnh được thể hiện trong pháp luật cũng như trong thượng đế, thế nên nó coi pháp luật là thần thánh; đối với nó, cái dùi cui của cảnh sát, thực chất là cái dùi cui của nó, có sức xoa dịu lạ thường. Nhưng với công nhân th́ tất nhiên không phải thế. Công nhân biết rất rơ và đă trải nghiệm nhiều lần rằng, pháp luật đối với anh ta chỉ là cái roi của giai cấp tư sản, thế nên chỉ khi bị bắt buộc th́ anh ta mới gọi đến pháp luật. Thật buồn cười là có người cho rằng công nhân Anh sợ cảnh sát, khi mà tuần nào ở Manchester cũng có vụ cảnh sát bị đánh, thậm chí năm ngoái c̣n có âm mưu tấn công một đồn cảnh sát, vốn được bảo vệ bằng cửa sắt và cửa chớp dày. Trong cuộc băi công năm 1842, cảnh sát có được uy lực, như đă nói ở trên, th́ chỉ là v́ chính công nhân đă do dự.

V́ công nhân không tôn trọng pháp luật, mà chỉ khi nào không đủ sức thay đổi pháp luật th́ mới đầu hàng nó; nên tất nhiên là ít ra họ cũng muốn kiến nghị sửa đổi pháp luật, và muốn lấy pháp luật vô sản thay cho pháp luật tư sản. Pháp luật vô sản ấy chính là Hiến chương Nhân dân (People's Charter), về h́nh thức, đó là một văn kiện chính trị thuần túy, đ̣i cải tổ Hạ viện theo nguyên tắc dân chủ. Phong trào Hiến chương là biểu hiện tập trung của cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản. Với các công liên và các cuộc băi công, sự đấu tranh ấy vẫn luôn bị phân tán; đó chỉ là những công nhân cá biệt, hoặc các bộ phận công nhân, chống lại một người tư sản cá biệt. Nếu cuộc đấu tranh có trở thành phổ biến, th́ cũng hiếm khi là do sự tự giác của công nhân; và khi công nhân đă có chủ ư làm điều đó, th́ cơ sở của sự tự giác ấy là phong trào Hiến chương. Trong phong trào Hiến chương, toàn bộ giai cấp công nhân đứng lên chống giai cấp tư sản, tấn công trước hết vào chính quyền của giai cấp tư sản, tấn công vào thành tŕ pháp chế mà giai cấp tư sản dùng để bảo hộ ḿnh. Phong trào Hiến chương xuất phát từ Đảng dân chủ, đảng này phát triển từ những năm 1780, ở trong và đồng thời với giai cấp vô sản, mạnh lên trong thời ḱ Cách mạng Pháp, và sau khi kí ḥa ước th́ trở thành Đảng "cấp tiến". Bấy giờ trung tâm chủ yếu của nó là Birmingham và Manchester, c̣n trước kia là London. Đảng ấy liên minh với phái tư sản tự do, và buộc bọn đầu sỏ trong nghị viện cũ thông qua dự luật cải cách; từ đó, nó ngày càng được củng cố, trở thành chính đảng của công nhân, đối lập với giai cấp tư sản. Năm 1835, một ủy ban của Tổng hội liên hiệp công nhân (General Working Men's Association) ở London, do William Lovett đứng đầu, đă thảo ra Hiến chương Nhân dân gồm "sáu điểm" sau đây: 1) phổ thông đầu phiếu cho mọi đàn ông thành niên, có tinh thần lành mạnh và không phạm tội; 2) nghị viện được bầu lại hàng năm; 3) có phụ cấp cho nghị sĩ, để cho người không có tài sản cũng có thể làm đại biểu; 4) bỏ phiếu kín để ngăn ngừa sự mua chuộc và đe dọa của giai cấp tư sản; 5) phân chia khu bầu cử cho b́nh đẳng để bảo đảm quyền đại biểu b́nh đẳng; 6) thủ tiêu sự hạn chế tư cách đại biểu (vốn chỉ là thuần túy h́nh thức, và chỉ dành quyền ứng cử cho những người có địa sản ít nhất là 300 Bảng) để cho mỗi cử tri đều có quyền ứng cử. Sáu điểm ấy chỉ nói đến cơ cấu của Hạ viện, thoạt nh́n th́ hiền lành, nhưng vẫn đủ để quét sạch Hiến pháp Anh, gồm cả Nữ hoàng và Thượng viện. Cái gọi là thành phần quân chủ và thành phần quí tộc vẫn tồn tại trong Hiến pháp, chỉ là v́ giai cấp tư sản thấy có lợi khi duy tŕ nó làm bù nh́n; hiện nay, hai thành phần ấy đều chỉ tồn tại trên bề ngoài. Nhưng nếu Hạ viện được dư luận cả nước ủng hộ, nếu nó biểu hiện cho ư chí của toàn dân, chứ không chỉ của giai cấp tư sản; th́ nó sẽ thu được toàn bộ quyền lực về ḿnh, c̣n đám quân chủ và quí tộc th́ sẽ mất nốt cái hào quang thần thánh cuối cùng trên đầu họ. Công nhân Anh không tôn kính ǵ những thượng nghị sĩ và Nữ hoàng, c̣n giai cấp tư sản lại coi những người này như thần thánh, dù trên thực tế th́ rất ít quan tâm đến ư kiến của họ. Về chính trị, những người theo phái Hiến chương ở Anh đi theo chủ nghĩa cộng ḥa, dù họ hầu như không dùng hoặc rất ít dùng từ đó; dù đồng t́nh với các đảng cộng ḥa ở các nước, nhưng họ thích tự xưng là người dân chủ. Họ không chỉ là những người cộng ḥa đơn thuần, và chủ nghĩa dân chủ của họ cũng không chỉ hạn chế ở mặt chính trị.

Bắt đầu xuất hiện từ năm 1835, phong trào Hiến chương chủ yếu được truyền bá trong công nhân, nhưng chưa cách biệt hẳn với giai cấp tiểu tư sản cấp tiến. Chủ nghĩa cấp tiến công nhân vẫn sát cánh với chủ nghĩa cấp tiến tư sản. Hiến chương là khẩu hiệu chung của họ; hàng năm, họ cùng nhau tổ chức "hội nghị quốc dân", h́nh như c̣n thành lập chung một đảng. Giai cấp tiểu tư sản lúc đó đang có tâm lí rất hiếu chiến và bạo lực, do thất vọng với kết quả của dự luật cải cách, và do sự đ́nh đốn của thương nghiệp trong những năm 1837-1839; thế nên họ rất thích sự cổ động mănh liệt của phái Hiến chương. Ở nước Đức th́ người ta không thể nào h́nh dung ra tính chất quyết liệt của sự cổ động ấy. Người ta kêu gọi nhân dân cầm vũ khí, thậm chí kêu gọi khởi nghĩa; người ta cũng chế tạo giáo mác, hệt như ở thời Cách mạng Pháp trước kia. Trong phong trào năm 1838, có một giáo sĩ thuộc phái Giám lí, tên là Stephens, nói với cư dân Manchester như sau:

"Đừng sợ lực lượng của chính phủ, đừng sợ binh sĩ, lưỡi lê và đại bác của những kẻ áp bức các anh; các anh có trong tay một vũ khí có sức mạnh hơn tất cả những cái đó, một vũ khí mà lưỡi lê và đại bác không làm ǵ được. Một đứa trẻ mười tuổi cũng sử dụng được vũ khí đó. Chỉ cần vài que diêm và một nắm cỏ khô tẩm hắc ín là đủ rồi! Tôi muốn xem, nếu người ta dùng vũ khí đó một cách dũng cảm, th́ chính phủ và mấy chục vạn binh sĩ của nó sẽ làm ǵ để chống lại!"8*

Nhưng cùng lúc đó, tính chất xă hội đặc biệt của phong trào Hiến chương của công nhân cũng được lộ rơ. Trong cuộc mít-tinh có 20 vạn người tham dự ở Kersall Moor, mà chúng tôi từng gọi là "Núi thánh" của Manchester, giáo sĩ Stephens ấy lại nói rằng:

"Các bạn, phong trào Hiến chương không phải là một vấn đề chính trị, để giành quyền bầu cử cho các bạn, v.v.; phong trào Hiến chương là vấn đề bát đĩa; Hiến chương tức là ở tốt, ăn ngon, lương cao, ngày lao động ngắn".

V́ vậy, phong trào chống đạo luật mới về người nghèo và đ̣i dự luật mười giờ có mối liên hệ hết sức gần gũi với phong trào Hiến chương. Trong mọi cuộc mít-tinh thời ấy đều có mặt Oastler, người thuộc đảng Tory; và ngoài đơn thỉnh nguyện của quốc dân (đă được thông qua ở Birmingham), đ̣i thực hiện Hiến chương Nhân dân, c̣n có hàng trăm đơn thỉnh nguyện về việc cải thiện t́nh cảnh xă hội của công nhân. Năm 1839, sự cổ động vẫn sôi nổi; cuối năm ấy, khi phong trào vừa mới dịu xuống một ít, th́ Bussey, Taylor và Frost vội vàng tổ chức khởi nghĩa đồng loạt ở miền Bắc Anh, Yorkshire và Wales. V́ kế hoạch của Frost bị kẻ phản bội tố giác, nên ông buộc phải phát động khởi nghĩa non, và bị đàn áp. Những người tổ chức khởi nghĩa ở miền Bắc đă kịp rút lui khi biết về thất bại của Frost. Hai tháng sau, tháng Giêng 1840, ở Yorkshire đă nổ ra mấy cuộc gọi là bạo động cảnh sát (spy-outbreak), như tại Sheffield và Bradford, sau đó phong trào dần lắng xuống. Trong khi đó, giai cấp tư sản tập trung vào các dự án thực tế hơn, có lợi hơn cho họ, đó là xóa bỏ các đạo luật ngũ cốc. Hiệp hội chống đạo luật ngũ cốc đă được thành lập ở Manchester, do đó mà sự liên minh giữa giai cấp tư sản cấp tiến và giai cấp vô sản bị suy yếu. Công nhân sớm hiểu rằng việc bỏ đạo luật ngũ cốc có lợi rất ít cho họ, mà lại có lợi rất lớn cho giai cấp tư sản, thế nên dự án đó của giai cấp tư sản không được họ ủng hộ. Và rồi cuộc khủng hoảng năm 1842 nổ ra. Công tác cổ động lại sôi nổi như năm 1839. Nhưng lần này giai cấp tư sản công nghiệp giàu có cũng tham gia, v́ họ bị thua lỗ rất lớn trong khủng hoảng. Hiệp hội do các chủ xưởng Manchester tổ chức năm xưa, nay gọi là Đồng minh chống đạo luật ngũ cốc, đă có tính chiến đấu và cấp tiến rất cao. Báo chí và những người cổ động của họ đă sử dụng ngôn ngữ cách mạng công khai; một lí do chính của việc này là từ năm 1841, Đảng bảo thủ lên nắm chính quyền. Y như phái Hiến chương trước kia, bây giờ Đồng minh cũng kêu gọi khởi nghĩa; và công nhân, những người chịu đau khổ nhất trong cuộc khủng hoảng, cũng không ngồi yên; cái đơn thỉnh nguyện năm ấy, với 3 triệu rưỡi người kí tên, đă chứng tỏ điều đó. Tóm lại, nếu hai đảng cấp tiến ấy trước kia có hơi tách khỏi nhau, th́ nay lại liên minh với nhau. Ngày 15 tháng Hai 1842, trong hội nghị liên tịch ở Manchester, Đảng tự do và phái Hiến chương soạn thảo một lá đơn thỉnh nguyện, yêu cầu xóa bỏ các đạo luật ngũ cốc và thực hiện Hiến chương; ngày hôm sau, hai đảng đă thông qua lá đơn ấy. Mùa xuân và mùa hè đi qua, việc cổ động vẫn quyết liệt, và t́nh h́nh nghèo khổ ngày càng tăng. Giai cấp tư sản quyết tâm lợi dụng khủng hoảng, sự thiếu thốn do khủng hoảng gây ra, và t́nh h́nh náo động ở nhiều nơi, để đạt mục đích: xóa bỏ các đạo luật ngũ cốc. Lúc này những người thuộc đảng Tory đang nắm chính quyền, nên giai cấp tư sản dường như vứt bỏ cả ḷng yêu quí pháp luật của ḿnh: họ muốn có cách mạng, nhưng lại muốn mượn tay công nhân làm. Họ muốn công nhân tḥ tay vào lửa lấy hạt dẻ cho họ, và v́ họ mà chịu bỏng tay. Khẩu hiệu "tháng thần thánh", do phái Hiến chương đề ra năm 1839, để kêu gọi tổng băi công, nay lại có ở khắp nơi; nhưng lần này không phải công nhân muốn nghỉ việc, mà là chủ xưởng muốn đóng cửa nhà máy, đưa công nhân về nông thôn, đẩy họ đến những lănh địa của bọn quí tộc, để bắt nghị viện và chính phủ của đảng bảo thủ phải bỏ thuế ngũ cốc. Tất nhiên là việc đó có thể đưa đến khởi nghĩa, nhưng giai cấp tư sản vẫn nấp trong bóng tối, và có thể ngồi chờ kết quả, nếu thất bại th́ cũng không hại đến ḿnh. Cuối tháng Bẩy, t́nh h́nh thị trường bắt đầu khá lên, không thể tŕ hoăn nữa; để khỏi lỡ thời cơ, ba công ti ở Stalybridge liền hạ lương, trong khi t́nh h́nh kinh tế đang khá lên (xem báo cáo về thương nghiệp của Manchester và Leeds cuối tháng Bẩy và đầu tháng Tám). Họ tự động làm thế, hay đă có thỏa thuận với các chủ xưởng khác, đặc biệt là với Đồng minh; cái đó tôi không rơ. Nhưng không lâu sau, hai công ti đă rút lui, c̣n công ti thứ ba, tên là William Bailey & Anh em, th́ vẫn không lay chuyển và đáp lại lời phàn nàn của công nhân rằng "nếu họ không thích thế th́ họ nên đi dạo chơi một thời gian". Câu châm biếm ấy khiến công nhân la ó phẫn nộ; họ rời công xưởng, tỏa ra khắp thành phố để kêu gọi tất cả công nhân băi công. Chỉ sau mấy giờ, tất cả các xưởng đều ngừng việc, từng đoàn công nhân kéo đến Mottram Moor để mít-tinh. Đó là ngày 5 tháng Tám. Ngày 8 tháng Tám, 5000 người kéo đến Ashton và Hyde, khiến cho mọi công xưởng và mỏ than đều đóng cửa, và tổ chức mít-tinh ở nhiều nơi; nhưng họ không nói về việc xóa bỏ đạo luật ngũ cốc, như giai cấp tư sản hi vọng, mà họ nói về "tiền công phải chăng cho một ngày lao động phải chăng" (a fair day's wages for a fair day's work). Ngày 9 tháng Tám, họ đến Manchester, và không gặp ngăn trở ǵ từ phía chính quyền (v́ chính quyền toàn là người của Đảng tự do); mọi công xưởng ở đó đều dừng việc. Ngày 11 tháng Tám, họ đến Stockport; khi tới nhà tế bần, đứa con cưng của giai cấp tư sản, th́ lần đầu tiên họ bị kháng cự. Cùng hôm ấy, ở Bolton đă nổ ra tổng băi công và nhiều vụ náo động, mà chính quyền cũng không ngăn trở ǵ; cuộc khởi nghĩa mau chóng lan rộng đến mọi khu công nghiệp, trừ ngành gặt hái và thực phẩm, c̣n th́ mọi công việc đều dừng lại. Nhưng các công nhân khởi nghĩa vẫn b́nh tĩnh. Không phải là tự họ muốn vùng lên, mà họ bị bắt buộc: trừ một người, đảng viên đảng Tory ở Manchester, tên là Birley, c̣n th́ các chủ xưởng đều làm trái với thói quen của họ, và không chống lại băi công. Sự việc đă nổ ra, nhưng công nhân không có mục đích rơ ràng. Thực ra họ có nhất trí ở một việc là không lí ǵ lại xông vào lửa đạn để bảo vệ lợi ích của bọn chủ xưởng chống đạo luật ngũ cốc, nhưng về các mặt khác, th́ một số người đ̣i thực hiện Hiến chương, một số khác cho rằng việc đó c̣n quá sớm, và chỉ đ̣i khôi phục mức lương của năm 1840. Toàn bộ cuộc nổi dậy v́ thế mà thất bại. Nếu ngay từ đầu, nó đă là cuộc khởi nghĩa tự giác và kiên quyết của công nhân, th́ nhất định nó đă thắng lợi rồi. Nhưng quần chúng bị bọn chủ xua ra đường phố trái với ư muốn của họ, không có mục đích rơ rệt, nên đă không làm được ǵ. Trong khi đó, giai cấp tư sản chẳng thèm nhúc nhích ǵ để thực hiện những thỏa thuận ngày 15 tháng Hai, và đă sớm hiểu ra rằng công nhân không muốn làm công cụ cho họ; c̣n cái hành vi tiền hậu bất nhất, mà họ đă thể hiện trong việc né tránh con đường "hợp pháp", th́ đang gây nguy hiểm cho bản thân họ; thế nên họ liền quay về lập trường tôn trọng pháp luật, chạy về phía chính phủ, chống lại những công nhân mà chính họ đă xúi giục rồi sau đó ép phải khởi nghĩa. Giai cấp tư sản, và tay sai trung thành của họ, gia nhập các đội cảnh sát đặc biệt; đến các nhà buôn người Đức ở Manchester cũng tham gia, tay cầm can, mồm ngậm x́-gà, họ đi diễu một cách hoàn toàn vô ích trên các phố; ở Preston họ ra lệnh bắn vào nhân dân, thế là cuộc khởi nghĩa tự phát của nhân dân đột nhiên phải đối mặt không chỉ với lực lượng vũ trang của chính phủ, mà c̣n với toàn bộ giai cấp có của. Công nhân, vốn không có mục đích rơ ràng, nên đă dần giải tán, và cuộc khởi nghĩa kết thúc mà không có hậu quả ǵ nghiêm trọng. Sau đó, giai cấp tư sản c̣n làm nhiều điều bỉ ổi khác: để tự bào chữa, họ tỏ ra ghê tởm những hành động bạo lực của nhân dân, thái độ ấy chẳng ăn khớp ǵ với những lời lẽ cách mạng của chính họ hồi mùa xuân; họ đổ hết tội lỗi cho những "kẻ xúi giục" thuộc phái Hiến chương v.v., dù chính họ c̣n làm nhiều hơn cả phái Hiến chương trong việc gây ra khởi nghĩa; họ trở lại lập trường cũ của ḿnh về tính thiêng liêng của pháp luật, với sự vô liêm sỉ cực độ. Phái Hiến chương hầu như hoàn toàn không tham gia chuẩn bị khởi nghĩa, họ chỉ làm cái việc mà chính giai cấp tư sản đang sửa soạn làm, tức là lợi dụng t́nh thế, nhưng họ lại bị truy tố và xử tội; giai cấp tư sản th́ không mất ǵ, hơn nữa, trong thời ḱ đ́nh công, họ c̣n có thể bán hết hàng tồn kho để thu lợi.

Kết quả của cuộc khởi nghĩa này là giai cấp vô sản tách hẳn ra khỏi giai cấp tư sản. Phái Hiến chương trước nay th́ không che giấu rằng họ sẵn sàng dùng mọi biện pháp để thực hiện Hiến chương của ḿnh, thậm chí là cách mạng. C̣n giai cấp tư sản lúc này đột nhiên hiểu rằng bất ḱ cuộc biến chuyển bằng bạo lực nào cũng là nguy hiểm cho ḿnh; họ không muốn nghe về "lực lượng vật chất" nữa, mà chỉ muốn dùng "lực lượng tinh thần" để đạt mục đích của ḿnh; như thể là "lực lượng tinh thần" th́ khác hẳn với việc "trực tiếp hoặc gián tiếp đe dọa sử dụng lực lượng vật chất". Đó là một điểm chia rẽ, nhưng về sau nó đă bị thủ tiêu, do lời tuyên bố của phái Hiến chương (phái này ít ra cũng đáng tin ngang với giai cấp tư sản tự do) rằng họ cũng không cần đến lực lượng vật chất. Điểm chia rẽ thứ hai, và là điểm chủ chốt, giúp cho phong trào Hiến chương đến được sự thuần khiết của nó, là vấn đề xóa bỏ đạo luật ngũ cốc. Giai cấp tư sản cấp tiến quan tâm đến việc ấy, c̣n giai cấp vô sản th́ không. Thế là Đảng Hiến chương trước kia liền chia làm hai; những nguyên tắc chính trị của hai đảng ấy, trên lời nói th́ y hệt nhau, nhưng trên thực tế th́ khác hẳn nhau, đến mức không thể điều ḥa nổi. Tại hội nghị quốc dân Birmingham tháng Giêng 1843, ông Sturge, đại biểu của giai cấp tư sản cấp tiến, đề nghị bỏ cái tên Hiến chương ở trong điều lệ của Hiệp hội Hiến chương, lí do là: sau cuộc khởi nghĩa, cái tên ấy khiến người ta liên tưởng đến các hành động cách mạng bạo lực; nhưng mối liên hệ ấy đă có từ nhiều năm trước, mà khi đó th́ ông Sturge chẳng phản đối bao giờ. Công nhân không muốn bỏ cái tên ấy, và khi biểu quyết vấn đề, ông Sturge bị thất bại. Anh tín đồ Quaker ấy đột nhiên biến thành một giáo hữu trung thành, dắt đoàn người thiểu số rút khỏi hội trường, thành lập "Hiệp hội đấu tranh cho quyền đầu phiếu hoàn toàn", gồm toàn những người tư sản cấp tiến. Người tư sản ấy, cách đây ít lâu c̣n là Jacobin, nay lại thấy khó chịu với các hồi ức cũ, đến nỗi ông ta đă đổi từ "phổ thông đầu phiếu" (universal suffrage) thành một từ đáng buồn cười: "đầu phiếu hoàn toàn" (complete suffrage). Công nhân chế giễu ông ta và vẫn b́nh thản đi tiếp con đường của ḿnh.

Từ đó, phong trào Hiến chương trở thành một phong trào công nhân thuần túy, không có phần tử tư sản nào nữa. Các cơ quan báo chí đ̣i quyền đầu phiếu "hoàn toàn": "Weekly Dispatch", "Weekly Chronicle", "Examiner", v.v. dần rơi vào giọng điệu nhạt nhẽo như các báo khác của phái tự do; ủng hộ tự do buôn bán, công kích dự luật mười giờ và mọi yêu cầu đặc biệt của công nhân, nói chung là ít thấy chủ nghĩa cấp tiến. Trong mọi cuộc xung đột, bọn tư sản cấp tiến đều liên kết với Đảng tự do để chống phái Hiến chương; họ tập trung vào vấn đề các đạo luật ngũ cốc, mà với người Anh th́ đó cũng chính là vấn đề tự do cạnh tranh. Do đó, giai cấp tư sản cấp tiến đă hoàn toàn lệ thuộc vào ảnh hưởng của giai cấp tư sản tự do, và hiện nay, họ đóng vai tṛ hết sức thảm hại.

Những công nhân thuộc phái Hiến chương lại càng tham gia tích cực bội phần vào mọi cuộc chiến đấu của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản. Tự do cạnh tranh gây nhiều đau khổ cho công nhân nên họ căm thù nó; những kẻ ủng hộ việc đó, bọn tư sản, chính là kẻ thù của họ. Tự do cạnh tranh hoàn toàn chỉ có hại cho công nhân thôi. Tất cả yêu sách của họ từ trước đến nay: dự luật mười giờ, bảo vệ công nhân chống lại nhà tư bản, lương cao, bảo đảm đời sống, xóa bỏ đạo luật mới về người nghèo; tất cả những cái đă trở thành một phần thiết yếu của phái Hiến chương, cũng như là "sáu điểm", đều trực tiếp chống lại tự do cạnh tranh và tự do buôn bán. Thế nên không có ǵ lạ, khi công nhân không muốn biết ǵ về tự do cạnh tranh, về tự do buôn bán, về việc xóa bỏ các đạo luật ngũ cốc; ít nhất th́ họ rất thờ ơ với những yêu cầu ấy, họ căm ghét sâu sắc những người ủng hộ chúng; điều ấy, toàn thể giai cấp tư sản Anh không thể hiểu nổi. Chính v́ vấn đề này mà giai cấp vô sản chia tay với giai cấp tư sản, phong trào Hiến chương chia tay với phong trào cấp tiến; và lí trí của người tư sản không hiểu được điều đó, v́ nó không hiểu được giai cấp vô sản.

Nhưng đó cũng là điểm khác nhau giữa nền dân chủ của phong trào Hiến chương với mọi kiểu dân chủ chính trị tư sản trước đây. Về bản chất, phong trào Hiến chương là một hiện tượng có tính xă hội. "Sáu điểm" với người tư sản cấp tiến là hoàn toàn đầy đủ, nó cùng lắm chỉ dẫn đến một vài cải cách hiến pháp; c̣n với người vô sản, đó chỉ là một phương tiện. "Quyền lực chính trị là phương tiện của ta, hạnh phúc xă hội là mục đích của ta", đó là khẩu hiệu mà phái Hiến chương giờ đây đă nêu rơ. Lời của giáo sĩ Stephens nói về "vấn đề bát đĩa", vào năm 1838 chỉ là chân lí với một bộ phận của phái Hiến chương, đến năm 1845 đă là chân lí với mọi người. Trong phái Hiến chương không có những nhà chính trị thuần túy nữa. Dù rằng chủ nghĩa xă hội của họ c̣n rất phôi thai, đến tận bây giờ họ vẫn cho rằng "chia nhỏ ruộng đất" (allotment-system) là biện pháp chính để tiêu diệt nghèo khổ, trong khi nó đă bị sự phát triển công nghiệp làm cho vô hiệu (xem "Lời nói đầu"), và nói chung th́ đa số kiến nghị về thực tiễn của họ (những biện pháp bảo hộ công nhân, v.v.) nh́n bề ngoài đều mang tính phản động; nhưng một mặt, chính những biện pháp ấy sẽ không chịu nổi sức mạnh của cạnh tranh, khi đó th́ t́nh trạng trước kia sẽ trở lại, hoặc là chúng sẽ vượt qua và tiêu diệt cạnh tranh; mặt khác, chính t́nh trạng mơ hồ hiện nay của phong trào Hiến chương, và việc nó tách khỏi đảng chính trị thuần túy, tất yếu sẽ làm cho các đặc trưng mang tính xă hội của phong trào Hiến chương tiếp tục phát triển. Phong trào Hiến chương tất nhiên tiến gần đến chủ nghĩa xă hội, nhất là khi cuộc khủng hoảng sắp tới nổ ra, nó tất yếu sẽ xuất hiện, theo sau t́nh h́nh phồn vinh hiện nay của công thương nghiệp, chậm nhất là vào 18479*, mà cũng có thể là ngay sang năm; nó sẽ vượt xa mọi lần khủng hoảng trước kia về qui mô và mức độ kịch liệt, nó sẽ buộc công nhân càng phải t́m lối thoát khỏi cảnh nghèo khổ, nhưng là theo cách thức xă hội, chứ không phải là cách thức chính trị. Công nhân tất nhiên sẽ thực hiện được Hiến chương của ḿnh, nhưng tới lúc đó, họ sẽ hiểu rơ thêm rất nhiều việc mà ḿnh có thể thực hiện thông qua Hiến chương, c̣n bây giờ th́ họ vẫn hầu như chưa h́nh dung được.

Trong khi đó, việc cổ động cho chủ nghĩa xă hội cũng tiếp tục phát triển. Về chủ nghĩa xă hội Anh, ở đây ta chỉ nói đến ảnh hưởng của nó với giai cấp công nhân. Những người xă hội chủ nghĩa Anh đ̣i thực hiện dần chế độ công hữu tài sản, bằng cách lập những "khu di dân trong nước" gồm 2-3 ngh́n người, chuyên về công nghiệp hay nông nghiệp, được b́nh đẳng về quyền lợi và giáo dục; họ c̣n yêu cầu tạo điều kiện dễ dàng hơn cho việc li hôn, thiết lập một chính thể hợp lí, trong đó người ta được hoàn toàn tự do về tư tưởng, thủ tiêu các h́nh phạt, thay vào đó là việc đối xử hợp lí với tội phạm. Đó là những yêu cầu thực tiễn của họ; chúng tôi không chú ư đến nguyên tắc lí luận của họ ở đây. Người sáng lập ra chủ nghĩa xă hội Anh là một chủ xưởng, tên là Owen. Thế nên thuyết của ông, dù về thực chất, đă vượt lên trên sự đối lập giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, cũng như đă yêu cầu xóa bỏ sự đối lập đó; nhưng về h́nh thức th́ nó vẫn rất khoan dung với giai cấp tư sản, và lại rất bất công với giai cấp vô sản ở nhiều mặt. Những người xă hội chủ nghĩa hết sức hiền lành và ôn ḥa, dù chế độ xă hội hiện tại có tệ thế nào th́ họ vẫn thừa nhận nó; đó là v́ họ phủ nhận mọi phương thức cải biến xă hội, trừ việc tranh thủ dư luận. Nhưng đồng thời, những nguyên tắc của họ lại trừu tượng tới mức chúng không bao giờ có thể tranh thủ dư luận xă hội, nếu vẫn giữ nguyên h́nh thức hiện tại. Những người xă hội chủ nghĩa luôn than thở về sự suy đồi đạo đức của các giai cấp dưới; nhưng họ không thấy được những yếu tố tiến bộ trong sự tan ră đó của chế độ xă hội, cũng như không thấy được sự suy đồi đạo đức tệ hại hơn nhiều của các giai cấp có của giả nhân giả nghĩa, chỉ theo đuổi lợi riêng. Họ phủ nhận sự phát triển lịch sử, thế nên họ mưu tính đưa đất nước tới t́nh trạng cộng sản chủ nghĩa ngay lập tức, chứ không phải bằng cách tiếp tục đấu tranh chính trị cho đến khi đạt mục tiêu10. Tất nhiên họ hiểu tại sao công nhân căm thù người tư sản, nhưng họ cho rằng ḷng phẫn nộ ấy, cái duy nhất có thể đưa công nhân tiến lên, là vô ích; thay vào đó, họ đề cao ḷng từ thiện và bác ái, mà những thứ ấy c̣n vô ích hơn nhiều, trong t́nh thế hiện tại của nước Anh. Họ chỉ thừa nhận sự phát triển của tâm lí, sự phát triển của con người trừu tượng, không có liên hệ ǵ với quá khứ; nhưng toàn bộ thế giới, và cùng với nó là mỗi cá nhân, đều trưởng thành từ quá khứ đó. V́ thế họ quá giáo điều, quá siêu h́nh, và hầu như không có được kết quả. Một phần môn đồ của họ là thuộc giai cấp công nhân, nhưng họ chỉ thu hút được rất ít người trong giai cấp ấy, dù đó là bộ phận có học nhất và kiên định nhất. Chủ nghĩa xă hội, trong h́nh thức hiện tại của nó, không bao giờ có thể trở thành tư tưởng chung của giai cấp công nhân; nó phải hạ thấp tŕnh độ của ḿnh, tạm trở lại với quan điểm của phái Hiến chương. Nhưng c̣n chủ nghĩa xă hội vô sản chân chính, đă trải qua thử thách của phong trào Hiến chương, đă loại trừ những thành phần tư sản; chủ nghĩa xă hội đó hiện nay đă h́nh thành, ở rất nhiều người xă hội chủ nghĩa, và nhiều lănh tụ của phong trào Hiến chương (họ hầu hết là những người xă hội chủ nghĩa11*); chủ nghĩa xă hội ấy sẽ sớm đảm nhiệm vai tṛ chính yếu trong sự phát triển lịch sử của nhân dân Anh. Chủ nghĩa xă hội Anh có cơ sở rộng hơn nhiều so với chủ nghĩa cộng sản Pháp, nhưng sự phát triển12 của nó th́ lạc hậu hơn; nên nó tạm thời phải quay về với quan điểm của người Pháp, để sau này sẽ vượt xa hơn. Tất nhiên là đến lúc đó th́ người Pháp cũng sẽ phát triển lên nữa. Chủ nghĩa xă hội cũng là biểu biện quyết liệt nhất của thái độ không tôn giáo đang ngự trị trong công nhân; đến mức mà chính công nhân, vốn có thái độ không tôn giáo một cách không tự giác và thuần túy thực tiễn, thường tỏ ra sợ hăi sự quyết liệt đó. Nhưng ở đây, sự nghèo khổ cũng bắt công nhân phải từ bỏ tín ngưỡng; họ ngày càng tin chắc là cái đó chỉ có thể khiến họ yếu đuối và yên phận, ngoan ngoăn phục tùng những kẻ đang hút máu họ - chính là giai cấp có của.

Vậy, ta thấy phong trào công nhân chia làm hai phái: xă hội chủ nghĩa và Hiến chương. Phái Hiến chương lạc hậu hơn, ít phát triển hơn; nhưng họ là những người vô sản chân chính, thực thụ, là đại biểu của giai cấp vô sản. Những người xă hội chủ nghĩa nh́n xa hơn, đề ra những biện pháp thực tiễn để loại bỏ nghèo khổ; nhưng v́ có nguồn gốc từ giai cấp tư sản, nên họ không thể ḥa ḿnh vào giai cấp công nhân. Sự hợp nhất giữa chủ nghĩa xă hội và phong trào Hiến chương, sự tái hiện của chủ nghĩa cộng sản Pháp theo đặc điểm nước Anh, đó là việc sẽ xảy ra trong tương lai gần, và đă chớm nở một phần rồi. Chỉ khi đạt được điều đó th́ giai cấp công nhân mới thật sự trở thành chủ nhân của nước Anh; đồng thời sự phát triển chính trị và xă hội sẽ thêm mạnh mẽ, để tạo điều kiện thuận lợi cho cái chính đảng mới ra đời ấy, cho bước tiến tiếp theo ấy của phong trào Hiến chương.

Các nhóm công nhân khác nhau ấy (những hội viên công liên, những người Hiến chương, những người xă hội chủ nghĩa) khi th́ hợp lại, khi th́ tách ra, đă tự lập nên nhiều trường học và pḥng đọc sách để nâng cao tŕnh độ tri thức. Ở mỗi tổ chức xă hội chủ nghĩa, trong hầu hết các tổ chức Hiến chương, ngay cả nhiều công liên riêng rẽ, đều có những cơ quan ấy. Ở đây, trẻ em được tiếp thu giáo dục vô sản thuần túy, thoát khỏi mọi ảnh hưởng tư sản; tại các pḥng đọc sách báo th́ chỉ có, hoặc hầu như chỉ có, những sách báo vô sản. Giai cấp tư sản coi những cơ quan ấy là rất nguy hiểm, và đă loại trừ được ảnh hưởng của giai cấp vô sản ở một số tổ chức tương tự, như là "Mechanics'Institutions"13, và biến chúng thành những cơ quan truyền bá các tri thức khoa học có lợi cho giai cấp tư sản. Ở đấy người ta dạy khoa học tự nhiên, để thu hút công nhân ra khỏi cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, và có thể làm cho một số người đi theo con đường phát minh, để giúp nhà tư sản có thêm thu nhập; nhưng với công nhân th́ việc nghiên cứu tự nhiên lúc này là hoàn toàn vô ích, v́ họ sống ở thành phố lớn, và ngày lao động rất dài, nên không bao giờ có thể nh́n thấy thiên nhiên. Ở đấy người ta c̣n thuyết giảng về kinh tế chính trị học, lấy tự do cạnh tranh làm thần tượng; từ môn khoa học này, công nhân chỉ có thể rút ra một kết luận: điều tốt nhất cho họ là âm thầm nhẫn nại chịu chết đói. Ở đấy người ta dạy công nhân cúi đầu, khúm núm phục vụ chính trị và tôn giáo thống trị; thế nên công nhân chỉ được nghe về sự vâng lời, thụ động và yên phận. Tất nhiên là quần chúng công nhân không muốn biết đến những trường học ấy, họ chỉ tới các pḥng đọc sách vô sản, và dự những cuộc thảo luận về các vấn đề liên quan trực tiếp đến lợi ích của ḿnh; khi đó th́ giai cấp tư sản tự măn liền thốt lên câu Dixi et salvavi14 của nó, và quay mặt đi một cách khinh bỉ, không thèm nh́n cái giai cấp "chỉ thích nghe lời kêu gọi điên cuồng của bọn mị dân ác ư, chứ không thích tiếp thu giáo dục đàng hoàng". Nhưng công nhân cũng coi trọng cả "giáo dục đàng hoàng", chỉ cần trong đó đừng xen lẫn cái khôn ngoan vụ lợi của giai cấp tư sản; trong các trường học và pḥng đọc sách của công nhân, nhất là của những người xă hội chủ nghĩa, thường tổ chức diễn giảng về khoa học tự nhiên, nghệ thuật và kinh tế chính trị học, có rất đông người nghe. Tôi từng gặp các công nhân mặc áo nhung sợi bông tồi tàn, nhưng tỏ ra hiểu biết về địa chất học, thiên văn học và các khoa học khác hơn nhiều người tư sản Đức có học. Những người đọc các tác phẩm kiệt xuất nhất về chính trị, triết học và thơ ca hiện đại hầu hết là công nhân, điều ấy đặc biệt chứng tỏ rằng giai cấp vô sản Anh đă thành công đến thế nào trong việc tạo ra một nền giáo dục độc lập. Người tư sản là nô lệ của chế độ xă hội hiện hành và của các thiên kiến liên quan tới chế độ ấy, anh ta sợ hăi lẩn tránh và trừ bỏ tất cả những cái ǵ thực sự có tính tiến bộ; người vô sản th́ mở to mắt, nh́n thẳng vào những cái ấy, nghiên cứu chúng một cách thích thú và hiệu quả. Về mặt này, những người xă hội chủ nghĩa đă làm được rất nhiều để giáo dục giai cấp vô sản; họ đă dịch sách của các nhà duy vật Pháp: Helvétius, Holbach, Diderot, v.v. và xuất bản với giá rẻ, cùng với đó là những tác phẩm hay nhất của các tác giả người Anh. "Cuộc đời của Jesus" của Strauss, "Tài sản" của Proudhon, cũng chỉ được lưu hành trong những người vô sản. Shelley, nhà tiên tri thiên tài Shelley, và Byron, người có nhiệt t́nh say sưa và châm biếm sâu cay xă hội hiện tại, có độc giả phần lớn trong công nhân; người tư sản chỉ đọc cái gọi là "sách gia đ́nh", tức là những bản đă bị cắt xén và tu sửa cho hợp với cái đạo đức giả dối ngày nay. Các tác phẩm của hai nhà triết học thực tiễn lớn nhất hiện nay, BenthamGodwin, đặc biệt là Godwin, cũng hầu hết là tài sản riêng của giai cấp vô sản. Nếu trong giai cấp tư sản cấp tiến c̣n có những đồ đệ của Bentham, th́ chỉ có giai cấp vô sản và những người xă hội chủ nghĩa là tiến xa hơn ông ta. Trên cơ sở ấy, giai cấp vô sản tạo ra sách báo riêng của ḿnh, mà đa số là tạp chí và sách mỏng, về nội dung th́ vượt xa mọi sách báo của giai cấp tư sản. Sau này, ta sẽ trở lại với vấn đề đó.

Cần nêu ra một điểm nữa: hạt nhân của phong trào công nhân là các công nhân công xưởng, nhất là công nhân bông vải sợi. Lancashire, nhất là Manchester, là nơi công liên mạnh nhất, là trung tâm của phong trào Hiến chương, và có nhiều người xă hội chủ nghĩa nhất. Chế độ công xưởng càng xâm nhập vào ngành nào th́ càng nhiều công nhân ngành đó được lôi cuốn vào phong trào; sự đối lập giữa công nhân và tư bản càng gay gắt, th́ ư thức vô sản trong công nhân càng phát triển, càng sâu sắc. Dù các thợ cả ở Birmingham cũng chịu đủ cay đắng do khủng hoảng, th́ họ vẫn đang ở địa vị trung gian rủi ro, giữa phong trào Hiến chương vô sản và chủ nghĩa cấp tiến tiểu thương. Nhưng nói chung th́ tất cả công nhân công nghiệp đều bị cuốn vào một h́nh thức nào đó của cuộc đấu tranh chống tư bản và giai cấp tư sản. Họ đều nhất trí rằng ḿnh là working-men15; đó là danh hiệu mà họ tự hào, danh hiệu phổ biến trong những cuộc họp của phái Hiến chương; nó nói lên rằng họ họp thành một giai cấp độc lập, có lợi ích và nguyên tắc riêng, có thế giới quan riêng, đối lập với mọi giai cấp có của, và cũng là giai cấp làm cơ sở cho sức mạnh và khả năng phát triển sau này của dân tộc.

Chú thích

1 "kẻ phản bội băi công" (Chú thích của người dịch).

2 "hồ sơ" (Chú thích của người dịch).

3* Những công nhân ấy được gọi là Thugs, theo tên của một bộ tộc nổi tiếng ở Đông Ấn, chuyên giết hại một cách độc địa tất cả những người lạ lọt vào tay họ.

4* "Một suy nghĩ độc đáo nào đó về "quyền xét xử nguyên thủy" (wild-justice) đă chi phối những con người ấy, khi họ hội họp bí mật, rồi bằng lí tính lạnh lùng, họ tuyên án các bạn công nhân của họ là kẻ đào ngũ và phản bội sự nghiệp của giai cấp ḿnh; kết tội tử h́nh những người đó, và giao cho các đao phủ bí mật thi hành, v́ thẩm phán và đao phủ của nhà nước không làm việc đó. Nó giống như "Femgericht" thời xưa, những ṭa án bí mật thời hiệp sĩ, đột nhiên sống dậy trước con mắt kinh ngạc của người ta; chỉ khác là các quan ṭa mặc áo nhung sợi bông chứ không phải áo giáp, và ṭa án không họp giữa rừng Westphalia, mà ở phố Gallowgate xinh đẹp của Glasgow! Thứ t́nh cảm đó rất phổ biến và mạnh mẽ trong quần chúng, dù h́nh thức cao nhất của nó chỉ có thể được biểu hiện ở thiểu số" (Carlyle, "Phong trào Hiến chương", tr. 40).

5 Theo truyền thuyết, nhà quí tộc La Mă Menenius Agrippa đă thuyết phục được những người b́nh dân khởi nghĩa năm 494 trước Công nguyên, bằng cách kể cho họ nghe câu chuyện ngụ ngôn về các bộ phận của cơ thể đă phản kháng không phục vụ cái dạ dày, v́ dạ dày không chịu ăn, cho nên đă dẫn tới một tai họa lớn cho cơ thể (Chú thích của người dịch).

6* Ure, "Triết học về công xưởng", tr. 366 và các trang sau.

7* Ở góc phố Cross Lane và Regent Road.

8* Ta đă thấy những lời đó có tác dụng thế nào với công nhân.

9* (Năm 1892) Dự đoán đă trở thành hiện thực (Chú thích của Engels cho lần xuất bản bằng tiếng Đức năm 1892).

10 Trong bản tiếng Anh năm 1887 và 1892, nửa sau của câu này đổi thành: "chứ không phải bằng sự phát triển chính trị tất yếu của đất nước, cho đến khi sự biến đổi đó trở thành có thể và cần thiết" (Chú thích của người dịch).

11* (Năm 1892) Tất nhiên là những người xă hội chủ nghĩa theo nghĩa chung, chứ không phải theo nghĩa hẹp của Owen (Chú thích của Engels cho lần xuất bản bằng tiếng Đức năm 1892).

12 Trong bản tiếng Anh năm 1887 và 1892, sau chữ "phát triển" có chữ "về lí luận" (Chú thích của người dịch).

13 "Mechanics' Institutions" là một loại trường học buổi tối, ở đó công nhân học được các kiến thức phổ thông và kĩ thuật; nó xuất hiện đầu tiên ở Anh vào năm 1823 (ở Glasgow) và năm 1824 (ở London). Đầu những năm 1840 đă có trên 200 trường, chủ yếu là ở các thành phố công xưởng thuộc Lancashire và Yorkshire. Giai cấp tư sản lợi dụng các trường ấy để đào tạo công nhân kĩ thuật cần thiết cho công nghiệp, và cũng nắm lấy những công nhân ấy (Chú thích của người dịch).

14 Dixi et salvavi animam meam (Tôi đă nói, và tôi đă cứu vớt được linh hồn của tôi) (Chú thích của người dịch).

15 "công nhân" (Chú thích của người dịch).


[Chương trước]   [Mục lục]   [Chương sau]