F. Engels
T́nh cảnh giai cấp công nhân Anh

CẠNH TRANH

Trong "Lời mở đầu", ta đă thấy, ngay khi công nghiệp mới bắt đầu phát triển, cạnh tranh đă sinh ra giai cấp vô sản như thế nào: nhu cầu hàng dệt tăng lên, tiền công thợ dệt tăng lên, làm cho những nông dân kiêm thợ dệt rời bỏ nghề nông, để kiếm được nhiều hơn từ chiếc khung cửi; ta đă thấy cạnh tranh, nhờ phương thức kinh doanh quy mô lớn, đă loại trừ tiểu nông, làm họ bị vô sản hoá, rồi dần dần đẩy họ ra thành phố như thế nào; rồi ta lại thấy cạnh tranh đă khiến phần lớn giai cấp tiểu tư sản bị phá sản, và cũng biến họ thành vô sản như thế nào; nó đă tập trung tư bản vào tay một số ít người, và tập trung dân cư vào các thành phố lớn như thế nào. Đó là những con đường và phương thức khác nhau, qua đó cạnh tranh đă tạo ra và tăng cường giai cấp vô sản; khi nó đă đạt được, trong nền công nghiệp hiện đại, sự phồn thịnh đầy đủ và phát triển tự do của ḿnh. Bây giờ, hăy xét đến ảnh hưởng của cạnh tranh đối với giai cấp vô sản đă h́nh thành, trước hết là những hậu quả của sự cạnh tranh giữa từng cá nhân người lao động với nhau.

Cạnh tranh là biểu hiện đầy đủ nhất của cuộc chiến - giữa mọi người với nhau - đang hoành hành trong xă hội công dân hiện đại. Cuộc chiến tranh ấy, chiến tranh v́ cuộc sống, v́ sinh tồn, v́ tất cả và do đó khi cần, cũng là cuộc đấu tranh sinh tử, diễn ra không những giữa các giai cấp khác nhau trong xă hội, mà c̣n giữa các cá nhân thành viên của những giai cấp ấy; người này đứng chắn lối đi của người kia, mỗi người đều t́m cách gạt người khác ra và lấy chỗ của họ. Người lao động cạnh tranh với nhau, anh tư sản cũng cạnh tranh với nhau. Anh thợ dệt máy cạnh tranh với anh thợ dệt tay; anh thợ dệt tay thất nghiệp, hoặc lương kém, cạnh tranh với anh thợ dệt có việc làm, hoặc lương khá hơn, và t́m cách hất cẳng anh này. Sự cạnh tranh đó giữa những người lao động với nhau, đối với họ, là mặt xấu nhất trong các quan hệ hiện tại; là vũ khí sắc bén nhất trong tay giai cấp tư sản, để chống giai cấp vô sản. Do đó, người lao động đă cố gắng dùng các công hội để tiêu diệt sự cạnh tranh ấy, cũng do đó mà giai cấp tư sản lồng lộn tấn công vào những công hội ấy, và ăn mừng mỗi khi chúng giáng được một đ̣n.

Người vô sản bất lực; nếu bỏ mặc họ, chỉ trong một ngày, th́ họ cũng không thể sống được. Giai cấp tư sản đă lũng đoạn mọi tư liệu sinh hoạt, hiểu theo nghĩa rộng nhất. Mọi cái người vô sản cần dùng, anh ta chỉ có thể nhận từ tay giai cấp tư sản, mà sự lũng đoạn của chúng được Nhà nước bảo hộ. Cho nên, về pháp luật cũng như trên thực tế, người vô sản đều là nô lệ của giai cấp tư sản; giai cấp này nắm quyền sinh sát đối với họ. Giai cấp tư sản cung cấp cho họ tư liệu sinh hoạt, nhưng đổi lấy "vật ngang giá", tức là lao động của họ; thậm chí c̣n làm cho họ ảo tưởng rằng: dường như họ cũng hành động theo ư chí của chính ḿnh, dường như họ kư kết hợp đồng với giai cấp tư sản một cách tự do, không bị ép buộc, như một người tự chủ. Quư hoá thay, cái tự do chỉ để cho người vô sản mỗi một con đường, là chịu nhận mọi điều kiện mà giai cấp tư sản đặt cho họ, hoặc là phải chết đói, chết rét, phải trần như nhộng t́m chốn dung thân giữa đám thú rừng! Quư hoá thay, cái "vật ngang giá", mà thước đo lại hoàn toàn tuỳ thuộc vào thiện ư của giai cấp tư sản! Và nếu người vô sản ngu xuẩn đến nỗi thà chết đói c̣n hơn là chịu nhận những điều kiện "công bằng" của bọn tư sản, là những "bề trên tự nhiên"1* của họ; th́ có hề ǵ, người ta sẽ t́m ngay được người khác một cách dễ dàng, bởi v́ trên đời này thiếu ǵ người vô sản, và không phải ai cũng ngu xuẩn đến nỗi thích chết hơn sống.

Cạnh tranh giữa người vô sản với nhau là thế đấy. Nếu tất cả người vô sản đều tuyên bố thà chết c̣n hơn làm việc cho giai cấp tư sản, th́ giai cấp này sẽ buộc phải từ bỏ ngay sự lũng đoạn của ḿnh. Nhưng điều đó không xảy ra và chưa chắc đă xảy ra, v́ vậy giai cấp tư sản vẫn cứ yên tâm. Cạnh tranh giữa người lao động với nhau chỉ có một giới hạn, đó là không người lao động nào lại làm việc với tiền lương thấp hơn mức cần thiết để sống; nếu nhất định phải chết đói, th́ thà ngồi không mà chết c̣n hơn làm việc mà vẫn chết. Dĩ nhiên giới hạn đó chỉ là tương đối; nhu cầu để sinh tồn của người này nhiều hơn, của người kia ít hơn, có người quen sống với nhiều tiện nghi hơn người khác; người Anh về một số mặt nào đó, hăy c̣n có văn hoá hơn và có nhiều nhu cầu hơn, so với người Ireland mặc đồ tả tơi, ăn khoai và ngủ trong chuồng súc vật. Nhưng không v́ vậy mà người Ireland không cạnh tranh với người Anh, làm giảm dần tiền lương, cùng với đó làm giảm cả tŕnh độ văn hoá của người lao động Anh, xuống ngang với người lao động Ireland. Một số công việc, bao gồm hầu hết các loại công việc trong công nghiệp, đ̣i hỏi một tŕnh độ văn hoá nhất định; cho nên v́ lợi ích của chính giai cấp tư sản, mà tiền lương cũng phải đủ cao để cho công nhân có được tŕnh độ tương ứng. Một người Ireland vừa mới đến Anh, ở ngay trong cái chuồng gia súc đầu tiên mà anh ta gặp, và dù có được chỗ ở kha khá một chút, th́ mỗi tuần đều bị tống ra ngoài, v́ anh ta uống rượu hết cả tiền và không trả được tiền thuê nhà, người như vậy không thể làm công nhân công xưởng tốt được; bởi vậy tiền lương trả cho công nhân công xưởng phải đủ để họ nuôi dạy con cái, khiến chúng biết lao động đúng quy cách, nhưng cũng không được nhiều hơn, khiến họ không thể không nhờ vào đồng lương của con cái, và chỉ có thể cho con cái ḿnh trở thành công nhân b́nh thường. Ở đây cái giới hạn, mức lương tối thiểu, cũng là tương đối: khi trong gia đ́nh mọi người đều đi làm, th́ mỗi người có thể kiếm ít đi một chút, và giai cấp tư sản đă tận dụng tối đa cơ hội này: nhờ lao động máy móc, có thể thuê cả phụ nữ và trẻ con vào làm, để hạ thấp tiền lương. Tất nhiên có những gia đ́nh, trong đó không phải ai cũng làm việc được; một gia đ́nh như vậy, sẽ rất khổ, nếu phải làm việc với mức lương tối thiểu, tính cho một gia đ́nh gồm toàn những người có thể làm việc; v́ vậy tiền lương được ấn định ở một mức trung b́nh, với mức này, nhà nào mà mọi người đều đi làm được sẽ sống tương đối khá, c̣n nhà nào có những người không làm việc được th́ sẽ tương đối khổ. Nhưng gặp trường hợp tệ nhất, th́ mỗi người lao động đều sẵn sàng từ bỏ chút tiện nghi và văn hoá mà anh ta đă quen thuộc ấy, miễn sao sống được; thà ở một cái chuồng gia súc c̣n hơn là màn trời chiếu đất; thà quần áo rách rưới c̣n hơn là không có tí quần áo nào; thà ăn khoai tây c̣n hơn là chết đói. Với niềm hy vọng ở ngày mai tốt đẹp hơn, họ đành chịu nhận một nửa tiền lương c̣n hơn là chết đói ở ngoài phố, như bao nhiêu người đă bị tước mất mẩu bánh ḿ. Cái chút ít ấy, cái "méo mó có hơn không" ấy, chính là tiền lương tối thiểu. Nếu số người lao động nhiều quá mức giai cấp tư sản cần sử dụng, nếu do đó mà qua cuộc cạnh tranh, vẫn c̣n một số người không t́m được việc làm, th́ số ấy cứ việc chết đói; bởi v́ nhà tư sản chắc hẳn sẽ không cho họ việc làm, nếu như hắn không kiếm được lợi nhuận từ việc bán sản phẩm lao động đó.

Qua đó ta thấy lương tối thiểu là thế nào. Mức lương tối đa th́ do cạnh tranh giữa các nhà tư sản với nhau quyết định, bởi v́, như ta đă biết, giữa họ với nhau cũng có cạnh tranh. Người tư sản chỉ có thể tăng thêm tư bản của ḿnh bằng thương nghiệp hoặc công nghiệp, và trong hai trường hợp đều cần người lao động. Cả khi hắn đem tư bản cho vay lấy lăi, th́ hắn vẫn gián tiếp cần người lao động, v́ không có thương nghiệp và công nghiệp th́ không ai chịu trả lăi cho hắn, không ai có thể sử dụng tư bản của hắn được. V́ vậy người tư sản luôn cần người vô sản, nhưng không phải trực tiếp để sống - v́ hắn có thể sống bằng tư bản của ḿnh - mà để làm giàu, giống như buôn bán th́ cần có hàng hoá, hoặc thồ hàng th́ cần có súc vật. Người vô sản làm ra cho người tư sản những hàng hoá đem bán có lăi. Cho nên khi nhu cầu về hàng hoá tăng, khiến tất cả những công nhân đang cạnh tranh với nhau đều có việc làm, và có thể c̣n thiếu người nữa, th́ cạnh tranh giữa công nhân ngừng lại, và cạnh tranh giữa các nhà tư sản bắt đầu. Nhà tư bản đang cần công nhân thừa biết rằng, khi giá cả tăng do nhu cầu tăng, th́ hắn sẽ kiếm được lợi nhuận lớn; hắn thà tăng lương một ít c̣n hơn bỏ mất cơ hội kiếm toàn bộ món lợi ấy. Hắn cho anh công nhân cái xúc-xích để lấy được chiếc dăm-bông. Thế là các nhà tư bản tranh giành công nhân của nhau, và tiền lương tăng. Nhưng lương chỉ tăng đến mức mà lượng cầu cho phép. Nhà tư bản chịu hi sinh chút ít lợi nhuận bất thường, nhưng khi phải hy sinh lợi nhuận b́nh thường của ḿnh, tức là lợi nhuận b́nh quân, th́ đương nhiên là hắn sẽ t́m cách không trả quá mức lương trung b́nh.

Từ đó có thể xác định thế nào là mức lương trung b́nh. Trong điều kiện b́nh thường, tức là khi cả công nhân lẫn tư sản đều không có lí do ǵ để cạnh tranh kịch liệt, khi số công nhân đúng bằng số có thể dùng trong sản xuất, để chế tạo số hàng hoá cần có, th́ lương sẽ cao hơn mức tối thiểu một ít; cao hơn bao nhiêu, th́ tuỳ vào nhu cầu trung b́nh và tŕnh độ văn hoá của công nhân. Khi người lao động quen ăn mỗi tuần vài bữa thịt, th́ nhà tư bản, dù muốn hay không, cũng phải trả lương đủ để họ có thể ăn như vậy; không thể ít hơn, v́ công nhân không cạnh tranh lẫn nhau, do đó không có lư ǵ mà họ chịu lương ít hơn; cũng không thể nhiều hơn, v́ giữa các nhà tư bản không có cạnh tranh, cho nên họ cũng không có lư do ǵ mà dùng những món tăng thêm đặc biệt để thu hút công nhân.

Trong điều kiện phức tạp của nền công nghiệp hiện đại ở Anh, rất khó xác định mức trung b́nh về nhu cầu và văn hoá của công nhân, vả lại, như ta đă thấy, nó rất khác nhau đối với các loại công nhân khác nhau. Nhưng phần lớn các loại công việc trong công nghiệp đều đ̣i hỏi một kỹ năng và quy tŕnh nhất định, muốn thế th́ công nhân cũng phải có tŕnh độ văn hoá nhất định, cho nên lương trung b́nh phải đủ để thúc đẩy công nhân thành thục kỹ năng ấy, và tuân theo quy tŕnh ấy. V́ thế mà tiền lương của công nhân công nghiệp trung b́nh cao hơn tiền lương của công nhân khuân vác giản đơn, của người công nhật v.v. và cao hơn tiền lương của công nhân nông nghiệp, thêm vào đó lẽ dĩ nhiên là trường hợp này c̣n phải kể đến giá cả ở thành phố rất đắt.

Nói cách khác, về pháp luật và trên thực tế, công nhân là nô lệ của giai cấp có của, của giai cấp tư sản; họ bị nô lệ đến mức có thể bị bán đi như hàng hoá, và cũng lên giá xuống giá như hàng hoá. Nhu cầu về công nhân tăng th́ họ lên giá, nhu cầu giảm th́ họ xuống giá, nếu nhu cầu giảm đến nỗi một số công nhân trở nên không thể bán được, phải "tồn kho", th́ họ đành không có việc làm, mà không có việc làm th́ không sống được, phải chết đói. Bởi v́, nói theo kinh tế học, chi phí dùng để nuôi họ không "tái sản xuất" được, sẽ là tiền vứt đi, và không ai bỏ vốn ra để làm cái đó. Về điểm này, Malthus, với thuyết nhân khẩu của ông ta, hoàn toàn có lư. Nó chỉ khác chế độ nô lệ công khai ngày xưa ở chỗ: người công nhân hiện đại có vẻ được tự do, bởi v́ anh ta không bị bán đi vĩnh viễn một lần, mà bán từng phần trong một ngày, một tuần, một năm, và bởi v́ không phải người chủ này đem anh ta bán cho người chủ khác, mà là chính anh ta phải tự bán ḿnh như vậy, v́ anh ta không phải là nô lệ của một cá nhân, mà là nô lệ của toàn thể giai cấp có của. Đối với anh ta, bản chất vấn đề vẫn không thay đổi; dù rằng cái vẻ bề ngoài tự do ấy, một mặt có mang lại cho anh ta chút ít tự do thật sự, tuy nhiên, lại có cái bất lợi là không ai đảm bảo nuôi sống anh ta; bất cứ lúc nào anh ta cũng có thể bị ông chủ, tức là giai cấp tư sản, đuổi ra và bỏ cho chết đói, khi mà giai cấp ấy không c̣n có lợi trong việc sử dụng anh ta, trong việc nuôi anh ta sống. Nhưng đối với giai cấp tư sản th́ t́nh h́nh hiện nay có lợi hơn rất nhiều so với chế độ nô lệ ngày xưa; lúc nào muốn là chúng có thể đuổi công nhân mà vẫn không mất ǵ đến vốn bỏ ra; và nói chung lao động của công nhân lại rẻ rất nhiều so với lao động của nô lệ, như Adam Smith tính để an ủi chúng2*.

Do đó, có thể nói rằng Adam Smith cũng hoàn toàn đúng, khi ông khẳng định ở một đoạn khác như sau:

"Nhu cầu về công nhân, hệt như bất ḱ hàng hoá nào khác, điều tiết quá tŕnh sản xuất ra công nhân và số người được sản xuất ra; khi quá tŕnh ấy quá chậm th́ nó thúc đẩy lên; khi quá tŕnh ấy quá nhanh th́ nó ḱm hăm lại."

Y hệt như đối với mọi hàng hoá khác: nếu công nhân ít th́ giá công nhân (tức là lương của họ) tăng, đời sống của họ khá hơn, hôn thú nhiều lên, sinh đẻ tăng lên, số trẻ nuôi sống được cũng nhiều lên, đến khi số công nhân sinh ra đă đủ; nếu công nhân quá nhiều th́ giá hạ, xảy ra thất nghiệp, nghèo khổ, đói khát, tất cả những cái ấy đă gây ra bệnh tật, để tiêu diệt "nhân khẩu thừa" đi. Và Malthus, người đă phát triển luận điểm trên của Smith, cũng có lí theo lối của ông ta, khi cho rằng bao giờ cũng có "nhân khẩu thừa", bao giờ cũng có quá nhiều người trên quả đất; ông ta chỉ sai khi cho rằng: số người có trên thế giới nhiều hơn số người mà tư liệu sinh hoạt hiện nay có thể nuôi sống. "Nhân khẩu thừa" sinh ra là do cạnh tranh giữa công nhân với nhau, nó bắt mỗi người lao động hàng ngày phải làm hết sức ḿnh. Ví dụ, một chủ xưởng mỗi ngày có thể thuê mười công nhân làm trong chín giờ; nếu các công nhân làm mười giờ một ngày, th́ ở đấy chỉ có chín công nhân có việc làm, c̣n anh thứ mười sẽ thất nghiệp. Nhân lúc nhu cầu về công nhân không cao lắm, một chủ xưởng có thể dùng cách doạ đuổi, mà bắt chín công nhân cũng với chừng ấy lương, mà mỗi ngày phải làm thêm một giờ nữa, tức là làm mười giờ theo ví dụ của tôi, th́ hắn đuổi người thứ mười và giữ tiền lương của người ấy ở túi hắn. Đấy là chuyện xảy ra ở qui mô nhỏ, và lặp lại với quy mô lớn trên cả nước. Cạnh tranh giữa công nhân với nhau làm cho năng suất lao động của mỗi người đạt đến mức cao nhất, sự phân công lao động, việc dùng máy móc và lợi dụng các lực lượng thiên nhiên, tất cả những cái đó khiến rất nhiều công nhân không có việc làm. Những người thất nghiệp ấy ra khỏi thị trường; họ không thể mua ǵ được; số hàng hoá trước kia họ cần mua bây giờ không ai cần nữa, v́ vậy cũng không cần phải sản xuất ra nữa; đến lượt những công nhân trước đây chế tạo các hàng hoá ấy cũng trở thành thất nghiệp; họ lại ra khỏi thị trường, và cứ măi tuần hoàn như vậy, đúng hơn là nếu không có những yếu tố khác chen vào. Việc đưa vào công nghiệp những biện pháp để tăng năng suất nói trên đă dần dẫn tới sự giảm giá của những hàng hoá sản xuất ra, và do đó làm tăng mức tiêu thụ, v́ vậy mà một phần lớn công nhân thất nghiệp, tất nhiên là sau những khổ sở kéo dài, rốt cục lại kiếm được việc. Nếu tính thêm sự xâm chiếm những thị trường nước ngoài, như đă xảy ra ở Anh trong khoảng sáu chục năm gần đây, làm cho nhu cầu về sản phẩm công nghiệp tăng liên tục và nhanh chóng, th́ nhu cầu về công nhân cũng tăng, và dân số cũng tăng lên tương ứng. Thế là thay v́ giảm, dân số Đại Britain lại tăng hết sức nhanh chóng và c̣n tiếp tục tăng; và dù công nghiệp không ngừng phát triển, dù nhu cầu về công nhân nói chung vẫn tăng, theo lời thú nhận của tất cả các đảng phái chính thức (tức là Đảng Tory, Đảng Whig và Đảng cấp tiến); ở Anh vẫn thường có nhân khẩu thừa, và cạnh tranh giữa công nhân với nhau nói chung vẫn mạnh hơn sự cạnh tranh để giành giật công nhân.

Do đâu mà có mâu thuẫn ấy? Do bản chất của công nghiệp và cạnh tranh, cũng như những cuộc khủng hoảng thương nghiệp bắt nguồn từ bản chất ấy. Trong chế độ hỗn loạn hiện nay của sản xuất và phân phối tư liệu sinh hoạt, không nhằm trực tiếp thoả măn nhu cầu, mà nhằm kiếm lợi, khi mỗi người tự ḿnh chịu hết những rủi may riêng tư trong lao động và làm giàu, th́ sự rối loạn nhất định sẽ xảy ra bất cứ lúc nào. Chẳng hạn, nước Anh cung cấp đủ loại hàng hoá cho rất nhiều nước. Dù người chủ xưởng biết được hàng năm nhu cầu về mỗi mặt hàng trong mỗi nước là bao nhiêu, hắn vẫn không thể biết trong từng thời điểm, hàng ấy đang được dự trữ bao nhiêu, lại càng không biết các kẻ cạnh tranh đă chở đến đấy bao nhiêu. Hắn chỉ có thể dựa vào giá cả luôn lên xuống, để suy đoán không chắc chắn về t́nh h́nh dự trữ và nhu cầu; hắn buộc phải gửi hàng hoá đi một cách cầu may; mọi việc đều tiến hành mù quáng, hú hoạ, ít nhiều phó mặc cho ngẫu nhiên. Nhận được tin đầu tiên có lợi từ một thị trường nào đó, là mọi người gửi ngay đến đấy tất cả những ǵ có thể; không mấy chốc, thị trường ấy ứ đầy hàng hoá, sự tiêu thụ dần đ́nh trệ, tiền không thu về được, giá cả hạ, và công nghiệp Anh không có việc cho công nhân làm nữa. Khi công nghiệp mới phát triển, th́ sự đ́nh trệ ấy chỉ hạn chế ở một số ngành hoặc một số thị trường; nhưng do tác dụng tập trung của cạnh tranh, công nhân thất nghiệp ở ngành này đổ xô về những ngành khác dễ học việc nhất, c̣n hàng hoá ế ẩm ở thị trường này đổ xô về những thị trường khác; kết quả là những cuộc khủng hoảng nhỏ dần hợp lại với nhau, và từ sự kết hợp ấy, dần h́nh thành một cuộc khủng hoảng lớn lặp lại theo chu kỳ. Một cuộc khủng hoảng loại ấy thường cứ 5 năm lại xảy ra một lần, tiếp sau một thời kỳ ngắn ngủi phồn vinh và thịnh vượng chung; thị trường trong nước, như tất cả các thị trường ngoài nước, đầy rẫy hàng hoá Anh, mà chúng chỉ có thể tiêu thụ từ từ; hoạt động công nghiệp ở hầu hết các ngành đều ngừng lại; các chủ xưởng và thương nhân nhỏ, không thể đợi đến khi thu được vốn về, th́ bị phá sản; các chủ xưởng và thương nhân lớn hơn th́ phải đ́nh chỉ kinh doanh trong giai đoạn trầm trọng nhất của khủng hoảng: không cho máy chạy, hoặc chỉ làm việc "không hết thời gian", nghĩa là làm khoảng nửa ngày chẳng hạn; tiền lương giảm xuống do những người thất nghiệp cạnh tranh, do thời gian lao động rút ngắn và v́ không thể bán hàng hoá có lăi nữa; trong công nhân nạn nghèo khổ lan khắp, nếu người nào đó có chút tiền dành dụm th́ cũng hết ngay, các cơ quan từ thiện chật ních người, thuế trợ giúp người nghèo tăng gấp hai gấp ba mà vẫn không đủ, số người đói tăng lên và bỗng nhiên "nhân khẩu thừa" xuất hiện với số lượng khủng khiếp. Việc ấy kéo dài một thời gian: những "người thừa" cố xoay xở để sống, không xoay xở được th́ chết; sự nghiệp từ thiện và các đạo luật về người nghèo giúp cho nhiều người kéo lê thêm cuộc sống; một số khác kiếm được việc làm, trong những ngành lao động ít cạnh tranh hơn và cách xa với đại công nghiệp hơn, th́ sống vất vưởng; mà để cho một con người sống gượng được một thời gian th́ có cần mấy tí đâu! T́nh h́nh dần lại khá lên: hàng hoá dự trữ chất đống được tiêu thụ, tâm trạng chán nản phổ biến của các nhà buôn và nhà công nghiệp làm cho số hàng ấy không được bổ sung nhanh chóng; măi đến khi, rốt cuộc, giá hàng tăng, và những tin tức thuận lợi từ mọi nơi đưa về lại thúc đẩy người ta hoạt động mạnh mẽ. Nhưng phần lớn các thị trường đều ở rất xa; trong khi những chuyến hàng mới chưa kịp tới nơi, th́ nhu cầu vẫn cứ tăng măi và giá cả cũng tăng theo; người ta tranh nhau mua những hàng chở đến đầu tiên; những cuộc mua bán đầu tiên làm cho thị trường càng nhộn nhịp; những chuyến hàng đến sau xem chừng c̣n được giá hơn; với hy vọng giá cả c̣n tăng lên, người ta liền đầu cơ tích trữ, vậy là những hàng hoá định đưa ra tiêu thụ bị cất đi, đúng vào lúc thị trường cần nhất; đầu cơ làm cho giá hàng cao, v́ nó thúc đẩy người khác mua hàng, và rút những hàng mới tới ra khỏi lưu thông; tất cả những tin ấy được truyền về Anh; các chủ xưởng bắt đầu hoạt động mạnh, xây những nhà máy mới, t́m đủ mọi cách để lợi dụng cái thời cơ thuận lợi ấy. Lúc đó ở đây cũng xuất hiện đầu cơ, với hậu quả hệt như ở các thị trường nước ngoài: giá hàng tăng, hàng bị rút khỏi lưu thông, hai việc ấy đẩy sản xuất lên đến mức khẩn trương cực độ; sau đó xuất hiện những kẻ đầu cơ "rỗng túi", bọn này dùng vốn ma, nhờ vào tín dụng mà sống, nếu không bán được hàng thật nhanh th́ phá sản. Chúng lao vào cuộc chạy đua tổng lực và hỗn loạn ấy để kiếm lợi, ḷng tham không đáy của chúng làm cho t́nh h́nh càng hỗn loạn và bận rộn, khiến chúng điên cuồng tăng giá và mở rộng sản xuất. Cuộc chạy đua cuồng loạn ấy lôi kéo cả những người điềm đạm nhất, giàu kinh nghiệm nhất; người ta bắt đầu rèn sắt, kéo sợi, dệt vải nhiều như là phải trang bị lại cho toàn thể nhân loại, như là người ta vừa mới t́m ra một thị trường mới, có hàng mấy tỷ khách hàng, ở một nơi nào đó trên mặt trăng. Bỗng một ngày, bọn đầu cơ rỗng túi ở nước ngoài, v́ cần tiền, bắt đầu bán hàng ra, dĩ nhiên là thấp hơn giá thị trường v́ gấp quá; một người bán ra, những người khác bán theo; giá cả bắt đầu bấp bênh, bọn đầu cơ sợ hăi tung hàng ra thị trường, thị trường trở nên hỗn loạn, tín dụng lung lay, hết hăng buôn này đến hăng buôn khác ngừng trả tiền, hết nhà này đến nhà khác vỡ nợ, và người ta phát hiện ra rằng số hàng có tại chỗ và đang chuyển đến đă nhiều gấp ba lần số hàng cần cho tiêu thụ. Tin này đưa về đến Anh, nơi mà khi đó sản xuất vẫn tiếp tục với năng suất tối đa; người ta cũng kinh hoàng khiếp sợ, những vụ phá sản ở nước ngoài kéo theo những vụ phá sản ở Anh; việc kinh doanh ngừng trệ làm cho nhiều hăng buôn phá sản; và trong cơn kinh hoàng, người ta cũng dốc hết hàng dự trữ ra thị trường, và việc ấy lại làm cho sự kinh hoàng càng tăng. Thế là khủng hoảng bắt đầu, cuộc khủng hoảng này sau đó lại tiến triển gần giống như tŕnh tự của cuộc khủng hoảng trước và qua một thời gian lại được thay thế bằng một thời kỳ phồn vinh. Và cứ tiếp diễn như vậy: phồn vinh, khủng hoảng, phồn vinh, khủng hoảng; sự tuần hoàn vĩnh viễn ấy của công nghiệp Anh, như đă nói, thường là cứ năm hoặc sáu năm lặp lại một lần.

Qua đó ta thấy rơ rằng, trừ những thời kỳ thịnh vượng cao độ ngắn ngủi, lúc nào nền công nghiệp Anh cũng phải có một đội quân lao động dự bị thất nghiệp, để có thể sản xuất ra hàng loạt hàng hoá mà thị trường yêu cầu, trong những tháng hoạt động mạnh nhất. Đội quân dự bị này mở rộng hay thu hẹp là tuỳ theo t́nh h́nh thị trường có thể giải quyết việc làm cho ít hay nhiều người trong số họ. Vào những lúc thị trường nhộn nhịp nhất, các vùng nông nghiệp, Ireland và những ngành công nghiệp ít chịu ảnh hưởng của sự phồn vinh chung, có tạm thời cung cấp một lượng công nhân nhất định cho các công xưởng; nhưng họ chỉ là thiểu số, và cũng thuộc hàng ngũ đội quân dự bị, chỉ khác mỗi một điều là: chính sự phồn vinh nhanh chóng đă đ̣i hỏi phát hiện ra họ. Khi những công nhân ấy chuyển sang các ngành công nghiệp hoạt động sôi nổi hơn, th́ ở nơi họ làm việc trước đây, cũng chẳng có vấn đề ǵ; để lấp chỗ trống, người ta kéo dài thời gian lao động, thuê cả phụ nữ và trẻ con; và khi khủng hoảng xảy ra, những công nhân ấy bị sa thải và quay về, th́ chỗ của họ đă có người khác chiếm; bản thân họ, ít nhất là phần lớn trong bọn họ, đă trở thành "người thừa". Đấy là cái đội quân dự bị cấu thành "nhân khẩu thừa" của nước Anh, trong thời kỳ khủng hoảng tăng lên rất nhanh, và ngay trong những thời kỳ có thể coi là ở giữa thịnh vượng và khủng hoảng, cũng có số lượng tương đối lớn; họ duy tŕ cuộc sống của ḿnh bằng cách ăn xin, ăn cắp, quét đường, dọn phân ngựa, chở hàng bằng xe tay hoặc lừa thồ, bán hàng rong, hoặc làm vài việc lặt vặt. Trong mọi thành phố lớn đều có thể gặp rất nhiều người như vậy, họ nhờ có chút tiền công ít ỏi t́nh cờ kiếm được "mà giữ cho hồn không ĺa khỏi xác", như người Anh thường nói. Đáng kinh ngạc là không có việc ǵ mà số "nhân khẩu thừa" đó lại không nhận làm! Những người quét đường (crossing-sweepers) ở London th́ cả thế giới đều biết; nhưng trước kia, cơ quan bảo trợ người nghèo hoặc toà thị chính thuê người thất nghiệp để quét dọn không chỉ những quảng trường, mà cả các phố chính của tất cả các thành phố lớn; ngày nay máy móc đă làm việc đó, hàng ngày máy chạy ầm ầm qua các phố, cướp mất miếng bánh ḿ của những người thất nghiệp. Trên những con đường lớn dẫn đến các thành phố, có ngựa xe đi lại nhiều, có thể thấy rất nhiều người đẩy xe ba gác, liều mạng chen giữa những xe ngựa và xe chở khách đang lao nhanh về các ngả, hốt lấy phân ngựa tươi để đem bán. Nhiều khi, để được làm việc ấy, họ c̣n phải trả hàng tuần vài shilling cho sở vệ sinh đường phố, và ở một số nơi việc ấy c̣n bị cấm, v́ nếu không cấm th́ sở ấy sẽ không thể bán thứ rác hốt được ở đấy làm phân bón, v́ trong đó có quá ít phân ngựa. Những "người thừa" nào kiếm được một cái xe ba gác để chở hàng đă là may mắn, nhưng nếu ngoài chiếc xe ba gác ra, c̣n kiếm được đủ tiền mua một con lừa th́ lại càng may mắn; con lừa phải tự kiếm ăn lấy, hoặc chỉ được cho ít đồ thừa bỏ đi, nhưng dù sao nó vẫn đem lại một ít thu nhập.

Phần đông những "người thừa" xoay ra bán hàng rong. Nhất là tối thứ bảy, khi tất cả dân lao động đổ ra phố, th́ có thể thấy số người sống bằng nghề ấy nhiều đến mức nào. Vô số đàn ông, đàn bà, trẻ con tranh nhau rao bán dây giày, dây lưng, dải băng, cam, bánh và mọi thứ khác. Cả những ngày thường, lúc nào cũng có thể gặp những người hàng rong rao bán cam, bánh, bia ginger và bia nettle3*. Họ cũng bán những hàng như diêm và các thứ tương tự, xi gắn, những đồ được phép sản xuất dùng để nhóm lửa, v.v. Một số khác, gọi là jobber4 th́ đi lang thang ngoài phố, t́m làm một số việc linh tinh nào đó ngẫu nhiên gặp được; vài người kiếm được việc làm từng ngày, nhưng đa số th́ không được may mắn như vậy.

Ông W. Champneys, mục sư ở East End (của London) kể lại rằng:

"Ở cổng tất cả các bến tàu London, mỗi sáng mùa đông, từ tinh mơ, đă có hàng trăm người nghèo đứng đợi giờ mở cổng, mong kiếm được một việc làm hôm ấy, và khi một số trẻ nhất, khoẻ nhất, hoặc quen biết nhất (với nhân viên quản trị các bến tàu) đă được thuê, th́ hàng trăm người c̣n lại thất vọng buồn bă quay về căn nhà tồi tệ của ḿnh".

Những con người ấy đă không kiếm được việc làm, lại không muốn nổi dậy chống lại xă hội, th́ c̣n cách ǵ khác hơn là đi ăn mày? V́ vậy không nên ngạc nhiên về số ăn mày rất đông, phần nhiều là những người có sức lao động, mà cảnh sát luôn xua đuổi. Nhưng cách ăn xin của họ cũng đặc biệt. Họ thường đi lang thang trên đường phố với cả gia đ́nh, lúc dừng chỗ này, lúc dừng chỗ kia, để hát một bài ca than văn, hoặc nói vài câu để kêu gọi ḷng thương của người qua đường. Ḱ lạ là hầu như chỉ thấy loại ăn mày đó trong những khu phố lao động, và hầu như họ chỉ sống nhờ vào của bố thí của những người lao động. Có khi cả gia đ́nh đứng lặng lẽ ở một phố đông người, không nói một lời, chỉ dùng cái dáng cầu xin giúp đỡ của ḿnh làm cho người ta xúc động. Ở đây họ cũng chỉ trông vào sự thông cảm của những người lao động, là những người do kinh nghiệm bản thân, đă biết thế nào là đói, và bất cứ lúc nào bản thân họ cũng có thể rơi vào t́nh cảnh ấy, và thực ra, sự cầu khẩn âm thầm mà vô cùng xúc động ấy hầu như chỉ thấy ở những đường phố thường có công nhân, và vào những giờ công nhân qua lại; nhất là vào tối thứ bảy, khi mà những "bí mật" của các khu phố lao động thường được phơi bày ra các đường phố lớn, bấy giờ giai cấp tư sản hết sức tránh những nơi nhơ nhuốc ấy. Trong số những "người thừa" ấy, nếu có ai đủ can đảm và điên dại để công khai chống lại xă hội, dùng chiến tranh công khai chống giai cấp tư sản, để đáp lại cuộc chiến tranh ngầm của giai cấp tư sản chống lại họ; th́ người đó sẽ đi ăn cắp, ăn cướp, giết người.

Theo những báo cáo của các uỷ viên các tiểu ban luật về người nghèo, th́ số "người thừa" này, ở Anh và Wales trung b́nh là một triệu rưởi; ở Scotland, v́ không có luật về người nghèo, nên không tính được chính xác, c̣n về Ireland th́ ta sẽ nói riêng. Nhưng số một triệu rưởi này chỉ gồm những người đă thực sự được cứu tế ở cơ quan bảo trợ người nghèo, không tính đến số người c̣n tự xoay xở được, để khỏi rơi vào t́nh thế không ai muốn đó; nhưng phần lớn trong số này lại ở các khu nông nghiệp, nên không kể ở đây. Trong thời ḱ khủng hoảng, con số ấy tất nhiên tăng lên nhiều, và sự bần cùng cũng đạt đến cực độ. Ví dụ cuộc khủng hoảng năm 1842, là gần đây nhất và dữ dội nhất: v́ khủng hoảng càng tái diễn th́ mức độ dữ dội càng tăng, và cuộc khủng hoảng sắp tới, chậm nhất là vào 18475*, có lẽ là dữ dội và kéo dài hơn. Trong thời gian diễn ra cuộc khủng hoảng ấy, thuế trợ giúp người nghèo ở tất cả các thành phố tăng lên chưa từng thấy. Như Stockport, cứ trả 1 Bảng tiền thuê nhà th́ phải đóng thêm 8 shilling thuế trợ giúp người nghèo, đến nỗi riêng món thuế ấy đă chiếm 40% tổng số tiền thuê nhà; hơn nữa, hàng dăy phố bỏ trống, dân số thành phố giảm hơn b́nh thường ít ra là 2 vạn; trước cửa các nhà bỏ không thường có ḍng chữ: Stockport to let (Stockport cho thuê). Ở Bolton, vào các năm b́nh thường, số tiền thuê nhà phải chịu thuế trợ giúp người nghèo trung b́nh là 86.000 Bảng, nay th́ chỉ c̣n 36.000; nhưng số người cần cứu tế lên tới 14.000, tức là hơn 20% tổng số cư dân. Ở Leeds, cơ quan bảo trợ người nghèo có một quĩ dự trữ 10.000 Bảng, món tiền ấy và số tiền quyên góp 7.000 Bảng đă hết sạch, từ trước khi khủng hoảng lên đến mức cao nhất. Ở đâu cũng như vậy cả. Báo cáo về t́nh h́nh các khu công nghiệp năm 1842, do một uỷ ban của Đồng minh chống đạo luật ngũ cốc viết vào tháng Giêng 1843, dựa trên những tài liệu chi tiết của các chủ xưởng, đă nói rằng: năm 1842, thuế trợ giúp người nghèo trung b́nh tăng gấp đôi năm 1839, nhưng số người cần cứu tế lại tăng gấp ba, thậm chí gấp năm; rằng nhiều người xin cứu tế là thuộc loại những người từ trước đến nay chưa hề phải xin trợ giúp v.v.; rằng so với những năm 1834-1836, lượng thực phẩm công nhân nhận được giảm đi 2/3, mức tiêu thụ thịt giảm rất nhiều: vài nơi giảm 20%, một số nơi giảm tới 60%; rằng kể cả thợ thủ công, thợ rèn, thợ nề, v.v., những người vẫn thường có đủ việc làm ngay trong thời buổi khó khăn nhất, nay cũng rất khổ sở v́ thiếu việc và tiền công thấp; rằng kể cả hiện nay, tháng Giêng 1843, tiền lương vẫn đang giảm dần. Đấy là tin do các chủ xưởng cung cấp!

Trên tất cả các đường phố đều có những công nhân đói khát, v́ chủ của họ đă đóng cửa các xưởng và không thể cho họ việc làm; họ đứng riêng từng người để xin của bố thí, hoặc đứng thành từng tốp, từng đám, vây kín các lối đi để xin người qua đường giúp đỡ; nhưng họ không kêu van như những người ăn mày thường, mà đ̣i hỏi, làm người ta sợ bằng số lượng, thái độ và lời nói sừng sộ của họ. T́nh h́nh các khu công nghiệp, từ Leicester đến Leeds, từ Manchester đến Birmingham đều như vậy. Các vụ rối loạn lác đác nổ ra ở chỗ này chỗ khác, hồi tháng Bảy, trong các xưởng đồ gốm ở Bắc Staffordshire; ḷng phẫn nộ đáng sợ sôi sục trong công nhân cho tới lúc, rốt cuộc, bùng nổ thành cuộc tổng khởi nghĩa ở các khu công nghiệp vào tháng Tám. Cuối tháng Mười một 1842, khi tôi tới Manchester, vẫn c̣n thấy khắp nơi, những đám người thất nghiệp đứng ở các góc phố, và nhiều công xưởng vẫn c̣n đóng cửa; trong mấy tháng sau, cho đến giữa năm 1843, những kẻ nhàn rỗi bất đắc dĩ đó mới dần giảm đi và các công xưởng lại hoạt động trở lại.

Trong một cuộc khủng hoảng như vậy, nỗi cùng quẫn khốn khổ của những người thất nghiệp ấy là thế nào, cái đó không cần nói. Thuế trợ giúp người nghèo không đủ, c̣n xa mới đủ; ḷng từ thiện của kẻ giàu như nhát gươm chém xuống nước, chỉ tác dụng trong chốc lát; ở nơi có nhiều kẻ đi xin th́ của bố thí chỉ giúp được số ít. Nếu những lúc ấy, các hiệu buôn nhỏ không cố bán chịu cho người lao động nữa - thật ra sau này khi thanh toán họ được trả lại rộng răi - và người lao động không tương trợ lẫn nhau, th́ chắc chắn trong mỗi cuộc khủng hoảng, sẽ có hàng loạt "người thừa" chết đói. Nhưng v́ chính thời kỳ gay gắt nhất cũng tương đối ngắn - chỉ độ một năm, lâu lắm là hai năm, hai năm rưỡi - nên phần lớn trong số họ đă trải qua nhiều gian nan khốn khổ để thoát chết. Sau này ta sẽ thấy rằng, mỗi cuộc khủng hoảng đều cướp đi rất nhiều sinh mạng gián tiếp cho bệnh tật, v.v. Giờ th́ hăy xét đến một nguyên nhân khác của t́nh cảnh khổ sở của công nhân Anh, nguyên nhân này bây giờ vẫn c̣n tiếp tục tác động làm cho mức sống của toàn thể giai cấp này không ngừng giảm sút.

Chú thích

1* Bọn chủ xưởng Anh rất ưa thích danh từ này.

2* "Người ta nói sức lực của nô lệ hao ṃn th́ chủ nô chịu, c̣n sức lực của công nhân tự do hao ṃn th́ bản thân công nhân chịu. Thực ra, hao ṃn sức lực của công nhân tự do cũng do chủ của anh ta chịu. Lương của người làm công nhật, đày tớ, v.v. phải đủ cao, để anh ta có thể tiếp tục sinh ra loại người làm công nhật, đày tớ, ở mức mà sự tăng giảm của nhu cầu đ̣i hỏi. Nhưng dù hao ṃn sức lực của công nhân tự do cũng do chủ anh ta chịu, th́ giá của hao ṃn ấy cũng thường thấp hơn nhiều so với hao ṃn sức lực của nô lệ. Nói chung, bọn chủ cẩu thả hoặc bọn cai lơ đễnh sẽ quản lư số tài khoản dùng để phục hồi hoặc hoàn lại hao ṃn sức lực của nô lệ" v.v. (A.Smith, "Wealth of Nations" ["Sự giàu có của các dân tộc"], t. I, phần 8, tr. 134, lần xuất bản thành 4 tập của McCulloch).

3* Hai loại nước giải khát có ga được công nhân, nhất là những người ít uống rượu, rất thích. Loại thứ nhất làm bằng nước, đường và gừng; loại thứ hai làm bằng nước, đường và cây tầm ma.

4 công nhân không có việc làm cố định (Chú thích của người dịch).

5* Nó đă đến vào năm 1847 (Chú thích của Engels cho bản in ở Mĩ năm 1887).


[Chương trước]   [Mục lục]   [Chương sau]