Ănggen
Chống Duyhring


XIII. Biện chứng phủ định cái phủ định.

"Bức phác hoạ lịch sử ấy" (nguồn gốc của cái gọi là tích luỹ ban đầu của tư bản ở Anh) "là một cái gì còn tương đối khá nhất trong quyển sách của Mác, và nó sẽ còn khá hơn nữa, nếu ngoài cái nạng thông thái ra, nó cũng không dựa vào cả cái nạng biện chứng nữa. Thật vậy, vì thiếu những phương pháp tốt hơn và sáng suốt hơn, nên ở đây sự phủ định cái phủ định ở Hegel đã phải làm nhiệm vụ bà đỡ để đỡ cho tương lai lọt ra khỏi lòng của quá khứ. Việc xoá bỏ chế độ sở hữu cá nhân, thực hiện từ thế kỷ XVI theo lối đã nói trên, là sự phủ định thứ nhất. Tiếp theo đó, sẽ có một phủ định thứ hai, nó được coi là phủ định cái phủ định, và do đó là khôi phục "chế độ sở hữu cá nhân" nhưng dưới một hình thức cao hơn, dựa trên chế độ công hữu về ruộng đất và tư liệu lao động. Nếu ở ông Mác, cái "chế độ sở hữu cá nhân" kiểu mới ấy cũng được gọi là "chế độ sở hữu xã hội", thì chính đấy là biểu hiện sự thống nhất cao nhất của Hegel, trong đó mâu thuẫn phải được xoá bỏ, nghĩa là, nói theo lối chơi chữ của Hegel, mâu thuẫn ấy vừa được khắc phục vừa được duy trì... Như vậy, việc tước đoạt những kẻ tước đoạt dường như là kết quả tự động của thực tại lịch sử trong các quan hệ vật chất bên ngoài của nó... Trên cơ sở tin vào những điều nhảm nhí của Hegel, - mà phủ định cái phủ định là một trong những điều nhảm nhí đó, - thì một người có suy nghĩ khó lòng mà tin được vào sự cần thiết của chế độ chiếm hữu chung về ruộng đất và tư bản... Vả lại, tính chất quái dị mơ hồ của các quan niệm của Mác cũng chẳng làm ngạc nhiên người nào đã biết rằng với cái cơ sở khoa học như phép biện chứng của Hegel, thì người ta có thể làm được những gì, hay nói cho đúng hơn, sẽ phải thu được những điều vô lý gì. Đối với những người nào không biết những ảo thuật này thì cần phải vạch thẳng ra rằng, ở Hegel, sự phủ định thứ nhất là khái niệm về tội cố tông nói trong sách giáo lý, và sự phủ định thứ hai là một sự thống nhất cao hơn dẫn đến sự chuộc tội. Dĩ nhiên là dựa trên những loại suy kỳ quặc mượn trong lĩnh vực tôn giáo ấy, thì không thể nào xây dựng được lôgich của các sự kiện thực tế được... ông Mác vẫn bình thản trong cái thế giới mù mịt của chế độ sở hữu vừa có tính chất cá nhân vừa có tính xã hội của ông ta, và để mặc cho tín đồ của ông phải tự mình giải quyết lấy cái điều bí ẩn biện chứng sâu xa ấy".

ông Đuy-rinh nói như vậy đấy.

Như vậy là Mác không thể chứng thực tính tất yếu của cách mạng xã hội, của việc xây dựng chế độ công hữu về ruộng đất và về những tư liệu sản xuất do lao động tạo ra, bằng cách nào khác ngoài cách viện đến sự phủ định cái phủ định của Hegel; và vì xây dựng lý luận xây dựng chủ nghĩa của mình trên những loại suy kỳ quặc ấy mượn của tôn giáo nên. Mác đi đến kết luận là trong xã hội tương lai sẽ có một chế độ sở hữu vừa có tính chất cá nhân vừa có tính chất xã hội, coi như sự thống nhất cao hơn theo kiểu Hegel của mối mâu thuẫn đã được xoá bỏ.

Thoạt tiên, chúng ta hãy khoan nói tới sự phủ định cái phủ định, và hãy xét cái "chế độ sở hữu vừa có tính chất cá nhân vừa có tính chất xã hội" đã. ông Đuy-rinh gọi đó là một "thế giới mù mịt", và kỳ lạ thay ông ta quả thật có lý về mặt này. Nhưng tiếc thay không phải Mác đứng ở trong cái thế giới mù mịt ấy, mà một lần nữa chính bản thân ông Đuy-rinh. Thật vậy, cũng như ở trên kia, nhờ nghệ thuật sử dụng cái phương pháp "mê sảng" của Hegel, ông ta đã xác định được một cách dễ dàng những tập còn viết dở của bộ "Tư bản" nhất định sẽ phải chứa đựng những nội dung gì, thì ở đây, chẳng cần vất vả mấy, ông ta cũng có thể sửa lại Mác theo Hegel bằng cách gán cho Mác sự thống nhất cao hơn của một chế độ sở hữu mà Mác không hề nói tới nửa lời.

Mác nói: "Đó là sự phủ định cái phủ định. Sự phủ định này không khôi phục lại chế độ tư hữu mà khôi phục lại chế độ sở hữu cá nhân trên cơ sở những những thành tựu của thời đại tư bản chủ nghĩa, trên cơ sở sự hiệp tác và sự chiếm hữu công cộng đối với ruộng đất và những tư liệu sản xuất do chính lao động làm ra. Dĩ nhiên việc biến chế độ tư hữu phân tán dựa trên cơ sở lao động của bản thân các cá nhân thành chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, là một quá trình lâu dài, gian khổ và đau đớn hơn nhiều so với việc biến chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thực tế đã dựa trên một quá trình sản xuất, thành chế độ sở hữu xã hội"[46]. Tất cả chỉ có thế thôi. Như vậy, trạng thái đo sự tước đoạt những kẻ tước đoạt được coi là sự khôi phục lại chế độ sở hữu cá nhân, nhưng trên cơ sở chế độ công hữu về ruộng đất và về những tư liệu sản xuất do chính lao động sản xuất ra. Đối với bất kỳ người nào biết tiếng Đức thì điều đó có nghĩa là chế độ công hữu bao gồm ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác, còn chế độ sở hữu cá nhân thì bao gồm các sản phẩm, tức là những vật phẩm tiêu dùng. Và để cho vấn đề có thể hiểu được ngay đối với những trẻ em lên sáu, ở trang 56 Mác giả định "một khối liên minh những người tự do, lao động bằng những tư liệu sản xuất chung, và tiêu phí một cách tự giác nhiều sức lao động cá nhân của họ như một sức lao động xã hội duy nhất", tức là một khối liên minh tổ chức theo kiểu xã hội chủ nghĩa, và Mác lại nói: "Toàn bộ sản phẩm của liên minh là một sản phẩm xã hội. Một phần sản phẩm đó lại dùng làm tư liệu sản xuất. Nó vẫn có tính chất xã hội. Nhưng phần kia thì do các thành viên của liên minh tiêu dùng với tính cách là tư liệu sinh hoạt. Vì vậy nó phải được phân phối cho tất cả bọn họ"[47]. Đó là điều đã khá sáng tỏ, ngay cả đối với bộ óc bị Hegel hoá của ông Đuy-rinh cũng vậy.

Chế độ sở hữu vừa có tính chất cá nhân vừa có tính chất xã hội, cái điều quái dị mơ hồ đó, cái điều vô lý cho phép biện chứng sâu xa mà Mác để mặc cho tín đồ của mình phải tự giải quyết lấy đó, một lần nữa lại là một sáng tạo tự do và một điều tưởng tượng của ông Đuy-rinh. Mác, bị coi như là môn đệ của Hegel, có nhiệm vụ phải đưa ra một sự thống nhất cao hơn thật sự, với tư cách là kết quả của sự phủ định cái phủ định, nhưng vì Mác làm việc đó không hợp với khẩu vị của ông Đuy-rinh, cho nên ông ta một lần nữa lại rơi vào cái lối văn cao nhã và tôn quý và vì lợi ích của chân lý hoàn toàn, lại gán cho Mác những điều bịa đặt của chính bản thân ông Đuy-rinh. Một con người hoàn toàn không có khả năng trích dẫn một cách đúng đắn, dù là dưới dạng một ngoại lệ, - lẽ dĩ nhiên một con người như thế thì rất có thể phẫn nộ một cách đạo đức trước "sự thông thái kiểu người Tàu" của những người khác chưa từng có trường hợp nào là không trích dẫn đúng, nhưng chính vì thế mà "che giấu một cách vụng về sự hiểu biết thiếu sót của họ đối với toàn bộ tư tưởng của mỗi tác giả họ trích dẫn". ông Đuy-rinh nói phải lắm. Lối viết sử theo thể văn cao nhã muôn năm!

Cho đến đây chúng ta vẫn xuất phát từ giả định cho rằng cái thói cứ khư khư trích dẫn sai của ông Đuy-rinh ít ra cũng là xuất phát từ thiện ý, và sở dic như thế là do hoàn toàn không có năng lực hiểu được một cách đúng đắn, hoặc là do một thói quen vốn cớ của lối viết sử theo thể văn cao nhã, là quen trích dẫn theo trí nhớ, một thói quen thường được gọi là tính cẩu thả. Nhưng hình như ở đây chúng ta đã đến cái điểm mà ở ông Đuy-rinh lượng cũng đã biến thành chất rồi thì phải. Bởi vì nếu chúng ta cân nhắc rằng, một là, đoạn văn của mác tự nó cũng đã hoàn toàn, hơn nữa lại bổ sung bằng một đoạn khác mà người ta quyết không thể nào hiểu lầm về ý nghĩa được, cũng ở trong cuốn sách đó; hai là, trong bài phê bình bộ "Tư bản" đã nói đến trên kia và đã đăng trong tập" Erganzungsbatter", cũng như trong bài phê bình ở tập "Lịch sử phê phán" in lần thứ nhất, ông Đuy-rinh đều chưa phát hiện ra con quái vật "chế độ sở hữu vừa có tính chất cá nhân vừa có tính chất xã hội" ấy, mà chỉ thấy nó trong bản in lần thứ hai, nghĩa là sau khi đọc lần thứ ba; sau đó, trong bản in lần thứ hai đã được chữa lại theo tinh thần xã hội chủ nghĩa đó, ông Đuy-rinh cần phải gán cho Mác những điều nhảm nhí nhất về tổ chức tương lai của xã hội, để ngược lại ông ta có thể đưa ra, với một giọng càng đắc thắng hơn - và ông ta cũng đã làm như thế thật - cái "công xã kinh tế mà tôi đã phác ra về mặt kinh tế và về mặt pháp lý trong "giáo trình" của tôi", - nếu chúng ta cân nhắc tất cả những điều đó, thì chúng ta buộc phải kết luận rằng ở đây, ông Đuy-rinh hầu như buộc chúng ta phải thừa nhận rằng ông ta cố ý "mở rộng một cách bổ ích" tư tưởng của Mác, - tức là bổ ích cho ông Đuy-rinh.

Vậy thì sự phủ định cái phủ định giữ một vai trò như thế nào trong tác phẩm của Mác ? ở trang 791 và các trang sau, Mác tóm tắt những kết luận của phần nghiên cứu kinh tế và lịch sử về cái gọi là tích lũy ban đầu của tư bản trong 50 trang trước. Trước thời đại tư bản chủ nghĩa đã có, ít ra là ở Anh, nền sản xuất nhỏ dựa trên cơ sở chế độ tư hữu của người công nhân đối với các tư liệu sản xuất của mình. Cái gọi là sự tích lũy ban đầu của tư bản ở đây chính là sự tước đoạt những người sản xuất trực tiếp ấy, nghĩa là sự thủ tiêu chế độ tư hữu dựa trên cơ sở lao động của bản thân. Điều này đã có thể thực hiện được là vì nền sản xuất nhỏ nói trên chỉ có thể trường hợp với những giới hạn chật hẹp, tự nhiên của sản xuất và của xã hội, và do đó, tới một trình độ phát triển nào đấy, nền sản xuất ấy lại đẻ ra những phương tiện vật chất để tự thủ tiêu nó. Sự thủ tiêu này, việc biến các tư liệu sản xuất có tính chất cá nhân và phân tán thành tư liệu sản xuất tập trung về mặt xã hội, cấu thành tiền sử của tư bản. Một khi người công nhân đã biến thành người vô sản và những điều kiện lao động của họ biến thành tư bản, một khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tự lập được, thì việc xã hội hoá lao động hơn nữa và việc tiếp tục biến ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác, do đó việc tiếp tục tước đoạt những kẻ sở hữu tư nhân, lại có một hình thức mới.

"Bây giờ kẻ cần phải bị tước đoạt không phải là người lao động kinh doanh độc lập nữa mà là nhà tư bản đang bóc lột một số đông công nhân. Sự tước đoạt đó được thực hiện qua sự tác động của các quy luật nội tại của bản thân nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, bằng cách tập trung tư bản. Một nhà tư bản đánh quỵ nhiều nhà tư bản. Song song với sự tập trung đó, hay là việc một số ít nhà tư bản tước đoạt số đông nhà tư bản đó, thì đồng thời hình thức hiệp tác của quá trình lao động với quy mô ngày càng lớn, việc áp dụng khoa học vào kỹ thuật một cách có ý thức, việc khai thác đất đai một cách có kế hoạch, việc biến tư liệu lao động thành những tư liệu lao động chỉ sử dụng được một cách tập thể, việc tiết kiệm tất cả các tư liệu sản xuất bằng cách sử dụng chúng với tư cách là những tư liệu sản xuất của lao động xã hội kết hợp, việc lôi cuốn tất cả các dân tộc vào mạng lưới thị trường thế giới, và đi đôi với cái đó là tính chất quốc tế của chế độ tư bản chủ nghĩa, cũng phát triển. Con số những tên trùm tư bản tiếm đoạt và nắm độc quyền tất cả những cái lợi của quá trình chuyển hoá đó ngày càng giảm đi không ngừng, thì nạn nghèo khổ, áp bức, nô dịch, thoái hoá, bóc lột càng tăng thêm, những sự căm phẫn của giai cấp công nhân - một giai cấp đang ngày càng không ngừng đông đảo hơn, ngày càng được cơ cấu của bản thân quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa huấn luyện, đoàn kết và tổ chức lại - cũng tăng lên. sự độc quyền của tư bản trở thành những xiềng xích ràng buộc cái phương thức sản xuất đã thịnh vượng lên cùng với độc quyền đó và dưới độc quyền đó. Sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hoá lao động đạt đến cái điểm mà chúng không còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng nữa. Cái vỏ đó vỡ tung ra. Giờ tận số của chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa đã điểm. Những kẻ đi tước đoạt bị tước đoạt". [48]

Và bây giờ, tôi xin hỏi bạn đọc: đâu là những sự lắt léo cầu kỳ biện chứng và những tư tưởng rối rắm, đâu là cái quan niệm rối rắm và lệch lạc, do đó rốt cuộc tất cả chỉ là một, đâu là những phép màu biện chứng cho các tín đồ, đâu là cái đồ cũ bí ẩn bỏ đi của phép biện chứng và những sự lắt léo xây dựng trên những quy tắc của học thuyết Logos của Hegel, mà nếu không có thì theo ý ông Đuy-rinh, Mác không thể nào xây dựng sự trình bày của mình được ? Mác chỉ chứng minh về mặt lịch sử, và ở đây ông tóm tắt một cách ngắn gọn rằng: cũng giống như trước kia nền sản xuất nhỏ, do sự phát triển của bản thân nó, nhất thiết đã đẻ ra những điều kiện để thủ tiêu nó, tức là những điều kiện để tước đoạt những người tư hữu nhỏ, thì ngày nay cũng thế, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng đã tự nó tạo ra những điều kiện vật chất nhất định sẽ làm cho nó phải tiêu vong. Quá trình đó là một quá trình lịch sử, và nếu như đồng thời nó cũng là một quá trình biện chứng thì đó không phải là lỗi tại Mác, mặc dầu điều đó có khó chịu mấy đối với ông Đuy-rinh chăng nữa cũng vậy.

Chỉ giờ đây, sau khi đã trình bày xong sự chứng minh của mình về mặt kinh tế và về mặt lịch sử, Mác mới nói tiếp:

"Phương thức chiếm hữu tư bản chủ nghĩa do phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đẻ ra và do đó cả chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa nữa, là sự phủ định đầu tiên đối với chế độ tư hữu cá nhân dựa trên lao động của bản thân. Nhưng nếu sản xuất tư bản chủ nghĩa là đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu của một quá trình tự nhiên. Đó là sự phủ định cái phủ định", v.v.. (xem đoạn trích dẫn ở trên)[49].

Như vậy, khi gọi quá trình đó là sự phủ định cái phủ định, Mác không có ý định muốn lấy điều đó để chứng minh tính tất yếu lịch sử của nó. Trái lại: chỉ sau khi đã lấy lịch sử để chứng minh rằng, trên thực tế, quá trình đó một phần đã diễn ra rồi, và một phần còn sẽ phải diễn ra nữa, thì Mác mới vạch thêm rằng đó là một quá trình diễn ra theo một quy luật biện chứng nhất định. Tất cả chỉ có thế thôi. Như vậy là ra lại thấy một ngón đánh lộn sòng thuần tuý nữa của ông Đuy-rinh, khi ông ta khẳng định rằng, ở đây sự phủ định cái phủ định phải làm nhiệm vụ bà đỡ để đỡ cho tương lai lọt khỏi lòng quá khứ, hoặc khẳng định rằng Mác đòi hỏi người ta tin vào sự tất yếu của chế độ sở hữu chung về ruộng đất và tư bản (bản thân việc này cũng là một mâu thuẫn bằng xương bằng thịt của ông Đuy-rinh) trên cơ sở tin tưởng quy luật phủ định cái phủ định.

Việc ông Đuy-rinh coi phép biện chứng như là một công cụ chỉ dùng để chứng minh, giống như khi nhận thức một cách hạn chế thì người ta có hể coi lôgich hình thức hay toán học sơ cấp là một công cụ như thế, - đã chứng minh một sự hoàn toàn không hiểu biết gì về bản chất của phép biện chứng. Ngay lôgich hình thức, trước hết, cũng là một phương pháp để tìm ra những kết quả mới, để tiến từ cái đã biết đến cái chưa biết, thì phép biện chứng cũng vậy, nhưng với một ý nghĩa còn cao hơn nhiều, vì phép biện chứng phá vỡ cái chân trời nhỏ hẹp của phép lôgich, chứa đựng mầm mống của một thế giới quan rộng lớn hơn. Người ta cũng thấy một mối quan hệ như thế trong toán học. Toán học sơ cấp, tức toán học về những số không đổi, vận động, ít ra là xét về toàn bộ, trong những giới hạn của phép lô gich hình thức; còn toán học về các số biến, mà phần quan trọng nhất là phép tính những đại lượng vô cùng bé về cơ bản chẳng qua chỉ là sự áp dụng phép biện chứng vào các quan hệ toán học mà thôi. Ở đây, sự chứng minh đơn thuần dứt khoát đứng vào hàng thứ yếu so với những sự áp dụng nhiều vẻ của phương pháp ấy vào những lĩnh vực nghiên cứu mới. Nhưng hầu hết những chứng minh của toán học cao cấp, bắt đầu từ những chứng minh đầu tiên của phép vi phân, nói một cách chặt chẽ thì đều là sai xét theo quan điểm của toán học sơ cấp. Điều này không thể nào khác thế được nếu người ta muốn dùng phép lôgich hình thức để chứng minh những kết quả đạt được trong lĩnh vực biện chứng, như trường hợp ở đây chẳng hạn. Đối với một kẻ siêu hình đã thành cố tật như ông Đuy-rinh, mà muốn chỉ dùng một mình phép biện chứng để chứng minh một cái gì đó thì thật là uổng công, cũng như Leibniz và các môn đồ của ông đã uổng công khi muốn chứng minh cho những nhà toán học đương thời về các nguyên tắc của phép tính các đại lượng vô cùng bé. Vi phân đã làm cho những nhà toán học này lên cơn co giật cũng giống như ông Đuy-rinh đã bị lên cơ co giật vì sự phủ định cái phủ định, vả lại trong sự phủ định cái phủ định này vi phân cũng có vai trò của nó như chúng ta sẽ thấy. Các ngài đó, nếu lúc bấy giờ còn chưa chết, cuối cùng cũng phải càu nhàu mà nhượng bộ không phải vì người ta đã thuyết phục được họ, mà vì những kết quả thu được bao giờ cũng đúng. ông Đuy-rinh, như chính ông nói, hiện nay mới vào khoảng tứ tuần, và nếu ông ta sống lâu - chúng ta chúc ông ta được như vậy - thì có thể là ông cũng sẽ gặp cảnh ngộ ấy.

Nhưng sự phủ định cái phủ định đáng sợ ấy là cái gì mà lại làm cho cuộc đời của ông Đuy-rinh đắng cay đến như vậy và ở ông ta nó lại đóng vai trò một tội ác không thể nào tha thứ được, giống như tội xúc phạm tới thánh thần trong Đạo cơ đốc vậy? - Đó chỉ là một quá trình rất đơn giản, diễn ra khắp mọi nơi và mọi lúc, mà mỗi đưa trẻ em đều có thể hiểu được nếu người ta gạt bỏ những cái đồ cũ bí ẩn mà triết học duy tâm cũ thường dùng để bọc lấy quá trình đó và những kẻ siêu hình bất lực cỡ như ông Đuy-rinh vẫn tiếp tục dùng để bọc lấy quá trình ấy vì lợi ích của họ. Chúng ta hãy lấy ví dụ một hạt đại mạch. Có hàng ngàn triệu hạt đại mạch giống nhau được xay ra, nấu chín, đem làm rượu bia, rồi được tiêu dùng đi. Nhưng nếu một hạt đại mạch như thế gặp những điều kiện bình thường đối với nó, nếu nó rơi vào một miếng đất thích hợp, thì nhờ ảnh hưởng của nhiệt và độ ẩm, đối với nó sẽ xảy ra một sự biến đổi độc đáo, nó nẩy mầm: hạt đại mạch không còn là hạt đại mạch nữa, nó bị phủ định, thay thế cho nó là một cái cây nảy sinh từ nó, đó là sự phủ định hạt đại mạch. Nhưng con đường đời bình thường của cái cây này như thế nào? Nó lớn lên, ra hoa, thụ phấn và cuối cùng sản sinh ra những hạt đại mạch mới và một khi những hạt này đã chín thì thân cây chết đi, đến lượt mình lại bị phủ định. Kết quả của sự phủ định cái phủ định này là chúng ta lại có hạt đại mạch như ban đầu, nhưng không phải chỉ là một hạt mà là một số hạt nhiều gấp mười, hai mươi, ba mươi lần. Các giống ngũ cốc thay đổi hết sức chậm chạp, vì vậy hạt đại mạch ngày nay gần giống như hạt đại mạch một trăm năm trước đây. Nhưng nếu chúng ta lấy thí dụ một cây cảnh, chẳng hạn như cây thược dược hay cây lan; nếu chúng ta chăm bón hạt giống và cái cây mọc cỏ hạt giống hơn, mà lại còn thu được những hạt giống tốt hơn về chất, chúng sẽ đem lại những bông hoa xinh đẹp hơn, và mỗi lần lắp lại quá trình đó, mỗi lần phủ định cái phủ định đều nâng cao sự hoàn thiện ấy, - Cũng như đối với hạt đại mạch, quá trình này cũng diễn ra ở phần lớn các côn trùng, như loài bướm chẳng hạn. Thông qua sự phủ định cái trứng, các côn trùng nở ra khỏi trứng, trải qua các giai đoạn biến hoá cho đến khi trưởng thành về mặt sinh dục, giao cấu với nhau rồi lại bị phủ định, tức là chúng chết đi một khi quá trình giao cấu đã hoàn thành và côn trùng cái đã đẻ ra rất nhiều trứng. Quá trình này không diễn ra một cách đơn giản như thế ở các cây cối và động vật khác, và trước khi chết, chúng không phải chỉ có ra hạt, đẻ trứng và đẻ con có một lần mà nhiều lần, - điều ấy ở đây khong quan trọng đối với chúng ta; ở đây chúng ta chỉ phải chứng minh rằng sự phủ định cái phủ định là có thật ở cả trong hai loài của thế giới hữu cơ. Tiếp nữa, toàn bộ khoa địa chất cũng là một chuỗi phủ định bị phủ định, một chuỗi những sự phá huỷ liên tiếp các thành hệ khoáng chất cũ và hình thành các thành hệ khoáng chất mới. Trước hết, vỏ của trái đất lúc ban đầu, nảy sinh do khối lỏng nguôi đi, bị vỡ ra từng mảnh do tác dụng của các đại dương, của khí tượng, do tác dụng hoá học của không khí, và những mảnh vỡ đó đọng lại dưới đáy biển thành từng lớp. Có những bộ phận của đáy biển nhô lên khỏi mặt biển, mật lần nữa lại làm cho những bộ phận nhất định của tầng trầm tích đầu tiên ấy chịu tác dụng của mưa, của nhiệt độ thay đổi tuỳ theo các mùa trong năm, của ô xy và a xít các bô ních trong không khí ; những khối đá nóng chảy từ lòng đất tuôn ra qua các tầng vỉa rồi sau đó nguôi đi cũng chịu những tác động như thế. Trong hàng triệu thế kỷ, rất nhiều lớp mới không ngừng hình thành như vậy, rồi bị há huỷ một phần lớn và lại được dùng làm vật liệu để cấu tạo nên những lớp mới khác. Nhưng kết quả của quá trình đó thì lại rất tích cực: tạo ra được một lớp đất gồm những nguyên tố hoá học hết sức khác nhau ở trong trạng thái được nghiền nhỏ theo lối cơ học, khiến cho một lớp cây cối hết sức trù mật và nhiều vẻ có thể mọc lên được.

Trong toán học cũng vậy. Chúng ta hãy lấy một đại lượng đại số nào đó, ví dụ a "chẳng hạn. Phủ định nó đi, thì ta có - a (a trừ). Phủ định cái phủ định này đi bằng cách nhân - a với - a thì ta sẽ có - a2, tức là đại lượng dương như trước nhưng ở bậc cao hơn, ở luỹ thừa thứ hai. Việc ta có thể đạt tới cũng đại lượng a2 ấy bằng cách nhân a dương với tự nó và bằng cách đó cũng có được a2, nhưng điều ấy ở đây không quan trọng. Bởi vì cái phủ định bị phủ định đã gắn rất chặt trong a2, khiến cho trong mọi trường hợp a2 đều có hai số căn bậc hai, tức là a và - a. Và việc không thể gạt bỏ cái phủ định bị phủ định, không thể gạt bỏ số căn âm chứa trong bình phương ấy, đã có được một ý nghĩa rất rõ rệt ngay trong các phương trình bậc hai rồi. - Phủ định cái phủ định còn biểu hiện nổi bật hơn nữa trong các toán học giải tích cao cấp, trong những "phép cộng tác số nhỏ vô hạn" mà chính ông Đuy-rinh cũng tuyên bố là những phép tính cao nhất của toán học, và thông thường người ta vẫn gọi là phép tính vi phân và tích phân. Các phép tính ấy làm như thế nào ? Ví dụ, trong một bài tính nhất định nào đó, tôi có hai số biên x và y, trong đó một số không thể biến đổi mà số kia lại không biến đổi cùng với nó theo một tỷ số nhất định tuỳ theo tình hình. Tôi làm cho x và y trở thành những số vi phân, nghĩa là tôi giả định x và y là nhỏ vô hạn, đến nỗi so với bất cứ một đại lượng thực nào, dù nhỏ đến này đi nữa, thì x và y cũng vẫn mất biến đi, đến nỗi x và y không còn gì hết, ngoài cái tỷ số của chúng đối với nhau, một tỷ số không có một cơ sở nào có thể gọi là vật chất được cả, một tỷ số số lượng mà không có một số lượng nào cả. Như vậy thì dy/dx , tỷ số của hai vi phân của x và y, sẽ là 0/0 , nhưng 0/0 được coi như là biểu thức của y/x , Tiện đây tôi chỉ nói thêm rằng cái tỷ số ấy giữa hai đại lượng đã biến mất, cái lúc chúng biến mất đi mà ta xác định được đó, chính là một mâu thuẫn ; nhưng điều đó không làm cho chúng ta lúng túng, cũng như trong gần hai trăm năm nay toán học nói chung đã không thể vì thế mà lúng túng. Như vậy là tôi đã làm gì, nếu không phải là phủ định x và y, nhưng không phủ định đến mức là không quan tâm gì đến chúng nữa như lối phủ định của phép siêu hình, mà là phủ định một cách tương ứng với tình hình ?. Như vậy là thay cho x và y, tôi đã có cái phủ định chúng, từ dx và dy ở trong các công thức hay các phương trình trước mặt tôi. Lúc đó tôi tiếp tục làm tính với các công thức ấy, tôi coi dx và dy như những đại lượng thực tuy phải phục tùng một vài quy luật ngoại lệ, và đến một điểm nhất định nào đó, tôi phủ định cái phủ định, nghĩa là tôi chuyển công thức vi phân thành tích phân, và thay thế cho dx và dy, tôi lại có được những số thực x và y ; nhưng lúc đó, không phải là tôi trở lại điểm mà tôi xuất phát, trái lại, tôi đã giải đáp được bài toán mà hình học và đại số học thông thường có lẽ phải nát óc ra mà cũng không giải quyết nổi.

Trong lịch sử, tình hình cũng chẳng khác gì thế. Tất cả các dân tộc văn minh đều bắt đầu từ chế độ công hữu về ruộng đất. Ở tất cả những dân tộc đã vượt qua một giai đoạn nguyên thuỷ nhất định thì tiến trình phát triển của nông nghiệp, chế độ công hữu ấy trở thành một trở ngại sản xuất. Chế độ công hữu bị huỷ bỏ, bị phủ định, biến thành chế độ tư hữu sau những giai đoạnh trung gian hoặc dài hơn hoặc ngắn hơn. Nhưng ở một giai đoạn phát triển cao hơn của nông nghiệp, đạt được nhờ bản thân chế độ tư hữu về ruộng đất, thì ngược lại, chính chế độ tư hữu về ruộng đất, thì ngược lại, chính chế độ tư hữu lại trở thành một trở ngại cho sản xuất, - như trường hợp chế độ chiễm hữu ruộng đất nhỏ cũng như chế độ chiễm hữu ruộng đất lớn ngày nay. Do đó mà tất yếu phải nảy ra cái yêu cầu : phủ định cả chế độ tư hữu về ruộng đất, biến nó trở lại thành chế độ công hữu. Nhưng yêu cầu này không có nghĩa là khôi phục lại chế độ công hữu nguyên thuỷ trước kia, mà là lập nên một hình thức cao hơn, phát triển hơn nhiều của chế độ sở hữu chung, nó không những không trở thành một chướng ngại cho sản xuất, mà trái lại, lần đầu tiên sẽ giải phóng cho sản xuất và cho phép sản xuất có thể lợi dụng được đầy đủ những phát hiện về hoá học và những sáng chế về cơ học hiện đại.

Hay một thí dụ khác nữa. Triết học cổ đại là một thứ chủ nghĩa duy vật nguyên thuỷ, tự phát. Với tư cách là một chủ nghĩa duy vật như vậy thì nó không thể giải thích rõ được quan hệ giữa tư duy và vật chất. Những sự cần thiết phải làm sáng tỏ vấn đề đó đã dẫn đến học thuyết về một linh hồn có thể tách rời khỏi thể xác, rồi đến chỗ quả quyết rằng linh hồn ấy là bất diệt, cuối cùng đến nhất thần giáo. Thế là chủ nghĩa duy vật cổ đại đã bị chủ nghĩa duy tâm phủ định. Nhưng trong sự phát triển về sau của triết học, chủ nghĩa duy tâm cũng không đứng vững được và bị chủ nghĩa duy vật hiện đại phủ định. Chủ nghĩa duy vật hiện đại này - phủ định cái phủ định - không phải chỉ là sự phục hồi đơn giản chủ nghĩa duy vật cũ, mà đã đưa thêm vào những nền móng bền lâu của chủ nghĩa duy vật cũ tiến bộ nội dung tư tưởng của hai nghìn năm phát triển của triết học và của khoa học tự nhiên, cũng như nội dung tư tưởng của bản thân hai nghìn năm lịch sử đó nữa. Nói chung, đây không còn là một triết học nữa, mà chỉ là một thế giới quan, nó không cần phải được chứng thực và biểu hiện thành một khoa học riêng về các khoa học hiện thực. Như vây là ở đây, triết học đã được "xoá bỏ", nghĩa là "vừa được khắc phục, vừa được bảo tồn" ; được khắc phục về hình thức, được bảo tồn về nội dung hiện thực. Như vậy là ở chỗ nào ông Đuy-rinh chỉ thấy có "chơi chữ" thì khi nhìn kỹ hơn người ta lại thấy một nội dung thực hiện.

Cuối cùng, ngay đến thuyết bình đẳng của Rousseau, - mà học thuyết Đuy-rinh chỉ là bản sao lại mờ nhạt, méo mó, - cũng không thể nào xây dựng được nếu không có sự phủ định cái phủ định theo kiểu Hegel làm bà đỡ, hơn nữa, đây lại là gần hai mươi năm trước khi Hegel ra đời. Và thuyết đó tuyệt nhiên chẳng hề lấy thế làm xấu hổ, và ngay trong lần trình bày đầu tiên, nó cũng đã gần như cố ý phô trương cái dấu tích của nguồn gốc biện chứng của nó. Khi còn ở trạng thái tự nhiên và dã man, con người ta đều bình đẳng ; và vì Rousseau coi ngôn ngữ như là một sự bóp méo trạng thái tự nhiên, nên ông ta hoàn toàn có lý khi đem sự bình đẳng giữa các động vật trong giới hạn cùng một loài áp dụng cả cho con người - động vật, mới đây đã được Haeckel phân loại theo kiểu giả thiết thành những Alali, nghĩa là những con người không có ngôn ngữ[50]. Nhưng những con người - động vật bình đẳng ấy lại hơn các động vật khác ở chỗ là có một đặc tính : khả năng đạt đến hoàn thiện, khả năng phát triển hơn nữa : và đó là nguyên nhân của sự bất bình đẳng. Như vậy Rousseau coi việc nảy sinh sự bất bình đẳng là một bước tiến. Nhưng bước tiến này có tính chất đối kháng nó đồng thời cũng là một bước lùi.

"Tất cả những bước tiến tiếp theo" (vượt qua trạng thái ban đầu) "về bên ngoài cũng là bấy nhiêu bước đi đến sự hoàn thiện của cá nhân nhưng kỳ thực thì đi đến sự suy tàn của loài... Nghề luyện kim và nghề nông là hai nghề mà sự phát minh ra đã gây nên cuộc cách mạng lớn lao đó" (Việc biến rừng nguyên thuỷ thành đất trồng trọt, nhưng đồng thời nạn nghèo khổ và nô dịch cũng sinh ra vì chế độ sở hữu). "Đối với nhà thơ thì vàng và bạc, nhưng đối với nhà triết học thì chính sắt và lúa đã làm cho người trở thành văn minh và làm cho loài người mai một".[51]

Mỗi bước tiến mới của văn minh đồng thời cũng là một bước tiến mới của sự bất bình đẳng. Tất cả những thiết chế mà xã hội ra đời cùng với văn minh đã đem lại cho mình, đều biến hành cái đối lập với mục đích ban đầu của chúng.

"Không thể chối cãi được rằng nhân dân lập ra những vương công là để bảo vệ tự do cho mình chứ không phải là để nô dịch mình, và đó chính là đạo luật cơ bản của mọi pháp quyền nhà nước".

Tuy vậy, những vương công ấy nhất định sẽ trở thành những kẻ áp bức nhân dân và tăng cường sự áp bức đó đến một điểm mà sự bất bình đẳng, bị đẩy tới chỗ tột cùng của nó, lại biến thành cái đối lập với nó, trở thành nguyên nhân của bình đẳng : trước mặt bạo chúa, tất cả mọi người đều ngang nhau, cụ thể là ngang với con số không.

"Đây là mức tột cùng của sự bất bình đẳng, là điểm cuối cùng khép kín vòng tròn và tiếp cận với điểm mở đầu vòng tròn : ở đây, tất cả các tư nhân đều trở thành bình đẳng với nhau, bởi vì họ đều chẳng là gì hết và các thần dân không có một luật lệ nào khác ngoài ý muốn của chủ". Nhưng bạo chúa chỉ là chúa khi nào hắn còn dùng được bạo lực, vì vậy "chừng nào người ta tống cổ hắn đi thì hắn không còn có thể than phiền gì bạo lực cả... Bạo lực duy trì hắn, bạo lực lật đổ hắn, mọi việc đều xảy ra đúng như trật tự tự nhiên đã định".

Và như vậy là bất bình đẳng lại biến thành bỉnh đẳng, nhưng không phải thành cái bình đẳng tự phát cũ của con người nguyên thuỷ không có ngôn ngữ, mà là bình đẳng cao hơn của khế ước xã hội. Kẻ đi áp bức bị áp bức trở lại. Đây là phủ định cái phủ định.

Như vậy là trong vấn đề này ngay ở Rousseau chúng ta cũng đã thấy có một lối suy nghĩa không những giống hệt lối suy nghĩa của Mác trong bộ "Tư bản", mà ngay cả về chi tiết, còn có cả một loạt những lối nói biện chứng đúng như thế mà Mác vẫn dùng : những quá trình xét theo bản chất của chúng thì có tính chất đối kháng, chứa đựng mâu thuẫn ; sự chuyển hoá của một cực thành cái đối lập với nó ; sau cùng phủ định cái phủ định với tư cách là hạt nhân của toàn bộ. Do đó, nếu năm 1754, Rousseau chưa có thể nói được cái tiếng lóng của Hegel, thì 16 năm trước khi Hegel ra đời, Rouseau cũng đã bị nhiễm nặng cái bệnh dịch của Hegel, tức biện chứng của mâu thuẫn học thuyết về Logos, thần học v.v... Và khi ông Đuy-rinh vận dụng hai con người đầy thắng lợi của ông ta trong việc tầm thường hoá thuyết bình đẳng của Rousseau thì ông ta đã rơi vào một mặt nghiêng và từ đó tuột thẳng vào đôi cánh tay của phủ định cái phủ định một cách không thể nào cưỡng lại được. Cái trạng thái trong đó sự bình đẳng giữa hai người nảy nở, được trình bày như một chế độ lý tưởng và được gọi là "trạng thái ban đầu" ở trang 271 quyển "Triết học". Nhưng theo như ở trang 279 thì trạng thái ban đầu này nhất định phải bị "chế độ cướp bóc" xoá bỏ, - đó là sự phủ định thứ nhất. Nhưng hiện nay, nhờ có triết học hiện thực, chúng ta đã đi tới chỗ xoá bỏ chế độ cướp bóc và thay nó bằng công xã kinh tế xây dựng trên cơ sở bình đẳng do ông Đuy-rinh đã phát minh ra, - đó là phủ định cái phủ định, bình đẳng ở một mức cao hơn. Thật là một cảnh tượng thú vị, mở rộng được tầm mắt một cách tốt đẹp : bản thân ông Đuy-rinh con người cao quý ấy, tự mình lại phạm vào cái tội tày trời là phủ định cái phủ định !.

Vậy phủ định cái phủ định là gì ? Là một quy luật phát triển cực kỳ phổ biến và chính vì vậy mà có một tầm quan trọng và một ý nghĩa cực kỳ to lớn, của tự nhiên, của lịch sử và của tư duy ; một quy luật, như ta đã thấy, có giá trị trong giới động vật và thực vật, trong địa chất học, toán học, lịch sử, triết học, mà ngay bản thân ông Đuy-rinh, mặc dầu tất cả sự chống đối ngoan cố của ông ta, vẫn buộc phải tuân theo với cách thức riêng của ông ta mà không hề hay biết. Lẽ dĩ nhiên là tôi còn chưa nói gì đến cái quá trình phát triển đặc thù mà hạt đại mạch chẳng hạn đã trải qua từ lúc nẩy mầm cho đến lúc thành cây nảy hạt rồi chết đi, khi nói rằng đó là phủ định cái phủ định. Vì vậy phép tính tích phân cũng là phủ định các phủ định. Nghĩa là, khi tự giới hạn trong việc khẳng định một cách chung chung đó, tôi sẽ có thể khẳng định một điều vô nghĩa là quá trình sống của thân cây đại mạch là phép tính tích phân, hoặc thậm chí là chủ nghĩa xã hội. Nhưng đó chỉ là cái mà bọn siêu hình luôn luôn đem gán cho phép biện chứng. Khi tôi nói rằng tất cả các quá trình đó đều là sự phủ định cái phủ đinh, tức là tôi bao quát tất cả các quá trình đó vào trong một quy luật vận động thống nhất ấy, và chính vì thế mà tôi không chú ý đến những đặc điểm của mỗi quá trình đặc biệt riêng rẽ. Nhưng phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loại người và của tư duy.

Người ta cũng có thể cãi lại rằng : cái phủ định ở đây không phải là phủ định thật sự ; tôi cũng phủ định một hạt đại mạch khi tôi xay nó ra, phủ định một con sâu khi tôi xéo nát nó, phủ định một số dương a khi tôi gạch bỏ nó, v.v... Hay là tôi phủ định câu : hoa hồng là một hoa hồng, khi tôi nói : hoa hồng không phải là một hoa hồng ; và kết quả sẽ ra sao khi tôi lại phủ định cái phủ định đó và nói : nhưng hoa hồng vẫn là một hoa hồng ? - Trên thực tế những lời phản đối này là những lý lẽ chủ yếu của bọn siêu hình để chống lại phép biện chứng, và cũng hoàn toàn xứng đáng với lối suy nghĩa bạn chế ấy. Phủ định trong phép biện chứng không phải chỉ có nghĩa là nói : không, hoặc giả tuyên bố rằng một sự vật không tồn tại, hay phá huỷ sự vật ấy theo một cách nào đó. Spinoza cũng đã từng nói : Omnis determinatio est negatio, mọi sự giới hạn hay quy định cũng đồng thời là một sự phủ định[52]. Tiếp nữa, phương thức phủ định ở đây được quyết định, một là, bởi tính chất chung của quá trình, và hai là bởi bản chất đặc thù của quá trình. Không những tôi phải phủ định, mà còn phải xoá bỏ sự phủ định ấy một lần nữa. Do đó tôi phải thiết lập sự phủ định thứ nhất như thế nào để cho sự phủ định thứ hai vẫn sẽ còn hay có thể có được. Nhưng làm thế nào để đạt đến điều ấy ? Cái đó là tuỳ theo bản chất đặc biệt của mỗi trường hợp riêng rẽ. Nếu tôi nghiền nát một hạt đại mạch, hay xéo chết một con sâu, thì đúng là tôi đã hoàn thành bước thứ nhất, nhưng tôi đã làm cho bước thứ hai không thể có được. Do đó, đối với mỗi loại sự vật cũng như đối với mỗi loại quan niệm và khái niệm, đều có phương thức phủ định riêng của nó, một sự phủ định như thế để có thể có được sự phát triển. Trong phép tính những đại lượng vô cùng bé, việc phủ định diễn ra khác với khi thành lập những luỹ thừa dương từ những số căn âm. Phải học tập điều này, cũng như mọi điều khác. Nếu chỉ biết rằng thân cây đại mạch và phép tính những đại lượng vô cùng bé được bao quát trong khái niệm phủ định cái phủ định, tôi vẫn không thể giống đại mạch thành công, mà cũng chẳng làm được tính vi phân và tính tích phân, cũng như nếu chỉ biết những quy luật về sự quy định thanh âm bằng kích thước của dây đàn, tôi vẫn không thể chơi đàn vĩ cầm ngay được. - Nhưng rõ ràng là nếu phủ định cái phủ định chỉ là cái trò trẻ con - cứ viết ra số a rồi lại xoá nó đi, hay là lần lượt nói rằng một cái hoa hồng là hoa hồng rồi lại nói rằng nó không phải là hoa hồng, thì ngoài cái ngu xuẩn của một kẻ tiến hành cái trò chơi tẻ ngắt ấy, người ta chẳng rút ra được một cái gì hết. Và tuy vậy bọn siêu hình vẫn muốn làm cho chúng ta tin rằng nếu chúng ta muốn thực hiện sự phủ định cái phủ định thì phải làm như thế mới là đúng.

Thế là một lần nữa, chính ông Đuy-rinh chứ chẳng phải ai khác, lại đánh lừa chúng ta khi ông ta quyết đoán rằng phủ định cái phủ định là một phép loại suy kỳ quái do Hegel phát minh ra, lấy trong lĩnh vực tôn giáo và xây dựng trên lịch sử của tội tổ tông và của sự chuộc tội. Từ lâu người ta đã suy nghĩ một cách biện chứng trước khi biết biện chứng là cái gì, cũng như họ đã nói văn xuôi từ lâu, trước khi từ "văn xuôi" xuất hiện. Quy luật phủ định cái phủ định, được thực hiện một cách không có ý thức trong tự nhiên và trong lịch sử, và trước khi còn được nhận thức, nó cũng diễn ra một cách không tự giác cả trong đầu óc chúng ta nữa, - quy luật đó lần đầu tiên đã đươc Hegel nêu lên một cách nổi bật. Và nếu ông Đuy-rinh muốn tự mình làm theo quy luật đó một cách lén lút và chỉ có cái tên gọi là làm cho ông ta khó chịu, thì ông ta cứ việc đi tìm một cái tên gọi hay hơn. Nhưng nếu không ta lại muốn gạt bỏ bản thân thực chất của sự việc đó ra khỏi tư duy, thì trước hết xin ông ta hãy làm ơn bỏ nó ra khỏi tự nhiên và lịch sử đi đã, và xin ông hãy phát minh ra một môn toán trong đó - a x - a không phải là + a2, và trong đó vi phân và tích phân đều bị cấm, nếu ai không tuân theo sẽ bị phạt.


[Chương trước]   [Mục lục]   [Chương tiếp theo]