Ănggen
Chống Duyhring


VIII. Tư bản và giá trị thặng dư

Theo ý kiến của ông Mác, tiền công chỉ là tiền trả cho số thời gian lao động trong đó người công nhân thật sự làm việc để có thể duy trì cuộc sống của mình. Muốn thế thì một số ít giờ thôi cũng đủ ; tất cả phần còn gọi của ngày lao động thường bị kéo dài, tạo ra một số dư chứa đựng cái mà tác giả của chúng ta gọi là "giá trị thặng dư", "và trong ngôn ngữ thông thường, gọi là tiến lời của tư bản. Không nói đến thời gian lao động đã chứa đựng trong những tư liệu lao động và trong những nguyên liệu tương ứng ở mỗi giai đoạn sản xuất, cái phần dư đó của ngày lao động là phần của nhà kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Theo quan điểm ấy thì việc kéo dài ngày lao động là một lợi nhuận rộng có tính chất bóc lột có lợi cho nhà tư bản ."

Như vậy là theo ông Đuy-rinh thì cái giá trị thặng dư của Mác chẳng qua chỉ là cái mà trong ngôn ngữ thông thường người ta gọi là tiền lời của tư bản hay lợi nhuận. Chúng ta hãy nghe chính Mác nói. Trong bộ "Tư bản, trang 195, giá trị thặng dư được giải thích bằng những từ đặt trong ngoặc đơn sau từ ngữ đó : " Lợi tức, lợi nhuận, địa tô"[67]. Ở trang 210, Mác đưa ra một ví dụ trong đó một số lượng giá trị thặng dư là 71 si-linh biểu hiện ra duới những hình thức phân phối khác nhau của nó; thuế thạp han, thuế địa phương và thuế Nhà nước, 21 si-linh, địa tô 28 si-linh, lợi nhuận của người tá điền và lợi tức 22 si-linh, giá trị thặng dư tổng cộng là 71 si-linh . Ở trang 542, Mác tuyên bố rằng khuyết điểm chủ yếu của Ricardo là " đã không trình bày giá trị thặng dư dưới dạng thuần tuý, nghĩa là độc lập đối với những hình thức đặc thù của nó như lợi nhuận, địa tô ,v.v.." rằng do đó, Ricardo đã trực tiếp nhập cục làm một những qui luật về giá trị thặng dư với những quy luật về tỷ suất lợi nhuận, trái lại Mác nói :"Sau đây, trong quyển ba, tôi sẽ chứng minh rằng, trong những điều kiện nhất định cũng một tỷ suất giá trị thặng dư ấy có thể biểu hiện thành những tỷ suất lợi nhuận hết sức khác nhau, và những tỷ suất giá trị thặng dư khác nhau có thể biểu hiện thành tỷ suất lợi nhuận giống nhau"[68]. ở trang 587, chúng ta đọc thấy: "nhà tư bản, sản xuất ra giá trị thặng dư, nghĩa là trực tiếp bòn rút lao động không công của công nhân, được gắn liền vào trong hàng hoá, nhà tư bản đó tuy là người đầu tiên chiếm hữu giá trị thặng dư, nhưng anh ta lại không phải là người sở hữu cuối cùng của giá trị t hặng dư đó. Trái lại, anh ta phải chia giá trị thặng dư đó với những nhà tư bản làm những chức năng khác trong toàn bộ sản xuất xã hội, chia với địa chủ ,v.v... Như vậy là giá trị thặng dư được phân ra làm nhiều bộ phận khác nhau . Những phần đó của nó thuộc về nhiều loại người khác nhau và mang nhiều hình thức khác nhau, độc lập đối với nhau, như lợi nhuận, lợi tức, lợi nhuận thương nghiệp địa tô,v.v. Những hình thức chuyển hoá đó của giá trị thặng dư, chúng tôi chỉ có thể bàn đến trong quyển ba mà thôi". Và trong nhiều đoạn khác, Mác cũng nói như vậy .

Không thể nào nói rành mạch hơn thế được. Cứ mỗi khi có dịp, Mác lại lưu ý rằng tuyệt đối không nên lẫn lộn cái giá trị thặng dư của ông với lợi nhuận hay tiền lời của tư bản, rằng lợi nhuận hay tiền lời đó thật ra chỉ là một hình thức phụ thuộc và thường thường chỉ là một phần của giá trị thặng dư thôi. Tuy vậy, nếu ông Đuy-rinh vẫn khẳng định rằng cái giá trị thặng dư của Mác "Trong ngôn ngữ thông thường" là "tiền lời của tư bản", và nếu quả thật là toàn bộ cuốn sách của Mác chỉ xoay quanh giá trị thặng dư thôi, thì chỉ có thể có một trong hai điều sau đây : Hoặc là ông Đuy-rinh không hiểu gì cả và như thế thì phải mặt dày mày dạn lắm mới dám đả kích một cuốn sách mà mình không biết nội dung căn bản. Hoặc giá là ông ta hiểu vấn đề, và như thế là ông ta đã cố ý xuyên tạc.

Tiếp nữa :

" Sự căm ghét độc địa mà ông Mác để lộ ra khi dùng cái lối mô tả việc bóc lột đó, cũng rất dễ hiểu. Nhưng cũng có thể phẫn nộ kịch liệt hơn nữa và thừa nhận đầy đủ hơn nữa tính chất bóc lột của hình thức kinh tế dựa trên chế độ làm thuê, mà không cần phải thừa nhận cái quan điểm lý luận biểu hiện ra trong học thuyết của Mác về giá trị thặng dư ".

Quan điểm lý luận của Mác, tuy có ý đồ tốt, nhưng lại lầm, đã làm cho Mác có một sự căm ghét độc địa đối với việc bóc lột: do "Quan điểm lý luận" sai mà cái nhiệt tình đó, tự nó là hợp đạo đức, lại có một biểu hiện trái đạo đức, nhiệt tình đó thể hiện ra thành một sự căm ghét đê tiện và sự độc địa hèn hạ, còn cái tính khoa học tột cùng và hết sức chặt chẽ của ông Đuy-rinh thì lại biểu hiện thành một nhiệt tình đạo đức có một bản chất cao thượng tương ứng, thành một sự phẫn nộ mà xét ngay về mặt hình thức cũng có tính chất đạo đức và hơn nữa, xét về lượng thì lại cao hơn. Trong khi ông Đuy-rinh tự ngắm mình một cách thích thú thì chúng ta hãy xét xem do đâu mà có sự phẫn nộ mạnh mẽ hơn đó.

ông ta nói tiếp :"Cụ thể, vấn đề nẩy sinh ở đây là" Làm thế nào mà những nhà kinh doanh cạnh tranh lẫn nhau lại có thể thường xuyên thực hiện được sản phẩm đầy đủ của lao động, do đó, cả sản phẩm thặng dư nữa, theo một giá cả cao hơn những chi phí sản xuất tự nhiên đến như thế, như tỷ lệ số giờ lao động dư ra nói trên đã giả định ? người ta không tìm được câu trả lời cho vấn đề trong học thuyết của Mác, và như thế chỉ vì một lý do đơn giản là trong học thuyết đó không có cả chỗ để đặt vấn đề nữa. Tính chất xa xỉ của nền sản xuất dựa trên lao động làm thuê hoàn toàn không được phân tích một cách nghiêm túc và cơ cấu xã hội với những cơ sở hút máu của nó không hề được thừa nhận là nguyên nhân cuối cùng của chế độ nô lệ người da trắng. Trái lại, bao giờ yếu tố chính trị xã hội cũng là yếu tố cần phải được giải thích bằng yếu tố kinh tế ".

Trong những đoạn trích dẫn trên đây chúng ta đã ghấy rằng Mác tuyệt nhiên không hề khẳng định rằng sản phẩm thặng dư, trong mọi tình huống đều được nhà tư bản công nghiệp, người đầu tiên chiếm hữu nó đem bán công nghiệp, người đầu tiên chiếm hữu nó đem bán trung bình theo giá trị đầy đủ của nó, như ông Đuy-rinh đã giả định ở đây. Mác nói rành mạch rằng cả lợi nhuận thương nghiệp cũng hình thành một phần của giá trị thặng dư, và theo những giả thiết đã nói thì lợi nhuận đó chỉ có thể có được khi nào chủ xưởng đem bán sản phẩm cho thương nhân dưới giá trị của nó, và như thế là nhường cho thương nhân đó một phần của cướp được. Theo cách đặt vấn đề như ở đây, tất nhiên Mác không có chỗ để nêu nó lên. Đặt một cách hợp lý thì vấn đề sẽ là: Làm thế nào mà giá trị thặng dư lại chuyển hoá thành những hình thức phụ thuộc của nó - thành lợi nhuận, lợi tức, lợi nhuận thương nghiệp, địa tô, v.v. ? Và thật vậy, Mác hứa sẽ giải quyết vấn đề đó trong quyển ba. Nhưng nếu ông Đuy-rinh không đủ nhẫn nại chờ đến lúc xuất bản tập hai bộ " Tư bản", thì trong khi chờ đợi, ông ta có thể xem xét kỹ vấn đề đó một chút trong tập một. Khi đó, ngoài những đoạn đã trích dẫn ra, ông ta có thể đọc thấy, ví dụ ở trang 323, rằng theo Mác, những quy luật nội tại của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa thể hiện ra trong sự vận động bề ngoài của các tư bản thành những quy luật cường chế của cạnh tranh,và dưới hình thức đó, chúng đạt tới ý thức của nhà tư bản cá biệt với tư cách là những động cơ của hắn rằng như vậy là một sự phân tích khoa học đối với cạnh tranh chỉ có thể thực hiện được một khi người ta nhận thức được bản chất bên trong của tư bản, cũng hoàn toàn giống như một người chỉ hiểu được sự vận động bên ngoài của các thiên thể khi nào biết được sự vận động bên ngoài của các thiên thể khi nào biết được sự vận động thực sự, tuy là giác quan không thể thấy được của chúng; sau đó Mác lấy một ví dụ để chỉ ra rằng một quy luật nhất định quy luật giá trị, trong một trường hợp nhất định, thể hiện ra trong cạnh tranh như thế nào và bộc lộ sức thúc đẩy của nó ra sao[69]. Ngay từ điều này, ông Đuy-rinh cũng đã có thể rút ra kết luận nói rằng cạnh tranh giữ một vai trò chủ yếu trong việc phân phối giá trị thặng dư, và nếu suy nghĩ một chút thì có thể thấy rằng những điều chỉ dẫn đó trong tập I thật ra cũng đủ làm sáng tỏ, ít ra là trên những nét lớn, sự chuyển hoá của giá trị thặng dư thành những hình thức phụ của nó.

Nhưng đối với ông Đuy-rinh thì cạnh tranh lại chính là chướng ngại tuyệt đối làm cho ông ta không thể hiểu đuợc. ông ta không thể hiểu được làm thế nào mà những nhà kinh doanh cạnh tranh với nhau lại có thể thực hiện lâu dài toàn bộ sản phẩm của lao động, và đo đó, thực hiện được cả sản phẩm thặng dư cao hơn chi phí sản xuất tự nhiên đến như thế. Ở đây, một lần nữa, ông ta lại phát biểu với sự "chặt chẽ, thường ngày, nhưng sự chặt chẽ này thực ra chỉ là một sự cẩu thả. Ở Mác, sản phẩm thặng dư với tư cách là sản phẩm thặng dư thì hoàn toàn không có chi phí sản xuất, đó là cái phần sản phẩm không tốn kém gì cho nhà tư bản cả. Vậy nếu những nhà kinh doanh cạnh tranh với nhau muốn thực hiện sản phẩm thặng dư theo những chi phí sản xuất tự nhiên của nó, thì họ sẽ chỉ phải đem biếu những sản phẩm thặng dư đó đi thôi. Nhưng chúng ta sẽ không bàn đến những "chi tiết vi vật học" đó. Thật vậy, lẽ nào hàng ngày những nhà kinh doanh cạnh tranh với nhau lại không thực hiện sản phẩm của lao động cao hơn những chi phí sản xuất tự nhiên đó sao? Theo ông Đuy-rinh, những chi phí sản xuất tự nhiên gồm :

" Sự tiêu phí lao động hay sức lực, và sự tiêu phí này, xét cho đến cùng lại có thể đo lường được bằng sự tiêu phí thức ăn ".

Vậy, trong xã hội hiện nay, những chi phí đó gồm có những tiêu phí thực sự về nguyên liệu, tư liệu lao động và tiền công khác với "khoản thuế" với lợi nhuận, với khoản phụ gia cưỡng bức được với thanh kiếm trong tay. Nhưng mọi người đều biết rằng trong cái xã hội mà chúng ra đang sống những nhà kinh doanh cạnh tranh với nhau không thực hiện hàng hoá của họ theo những chi phí sản xuất tự nhiên mà còn tính thêm và thông thường thì thu được cả cái gọi là khoán phụ gia, tức là lợi nhuận nữa. Cái vấn đề mà ông Đuy-rinh tưởng chỉ cần nêu lên là có thể thổi đổ ngay toàn bộ ngôi nhà của Mác, giống như Josues xưa kia đã thổi đổ thành Jéricho, vấn đề ấy cũng tồn tại đối với lý luận kinh tế của ông Đuy-rinh. Chúng ta hãy xem ông ta trả lời như thế nao.

ông ta nói : " quyền sở hữu về tư bản không có một ý nghĩa thực tiễn nào và không thể thực hiện được, nếu nó không đồng thời bao hàm bạo lực gián tiếp đối với nhân liệt. Sản phẩm của bạo lực đó là tiền lời của tư bản, và vì vậy đại lượng của tiền lời này phụ thuộc vào quy mô và cường độ của việc thi hành sự thống trị đó... Tiến lời của tư bản là một chế định chính trị và xã hội, nó tác động mạnh mẽ hơn là cạnh tranh. Về mặt đó, những nhà kinh doanh hành động như là một đẳng cấp, và mỗi người riêng rẽ đều duy trì các vị trí của họ. Một mức tiền lời nào đó của tư bản là một điều cần thiết trong loại kinh tế ấy, một khi nó đã thống trị ".

Tiếc thay, ngay cả hiện nay chúng ta cũng vẫn không biết rằng làm thế nào mà những nhà kinh doanh cạnh tranh với nhau lại có thể thực hiện được lâu dài sản phẩm của lao động cao hơn chi phí sản xuất tự nhiên. Vì không thể giả định rằng ông Đuy-rinh đánh giá cao công chúng của mình đến mức cho rằng có thể thoả mãn cho họ bằng cách nói rằng tiền lời của tư bản đứng trên cạnh tranh, cũng như trước kia vua Phổ đứng trên luật pháp. Chúng ta biết những mánh khoé mà vua Phổ đã dùng để đạt tới một vị trí cao hơn luật pháp; những mánh khoé khiến tiền lời của tư bản trở nên mạnh hơn cạnh tranh, đó chính là điều mà ông Đuy-rinh phải giải thích cho chúng ta rõ, và đó là điều mà ông ra khăng khăng không chịu giải thích. Và tình hình cũng không hơn gì nếu, về mặt này, như ông ta nói, những nhà kinh doanh hành động như một đẳng cấp, song mỗi người riêng rẽ đều duy trì vị trí của mình. Vì rằng chúng ta không được nhẹ dạ tin lời ông ta nói rằng chỉ cần một số người nào đó hành động như một đẳng cấp là mỗi người riêng rẽ trong bọn họ đều giữ được vị trí của mình? Những thành viên của những phường hội thời trung cổ, những nhà quý tộc Pháp năm 1989, như người ra đều biết, đã hành động rất kiên quyết với tư cách là một đẳng cấp, ấy thế mà họ cũng đã tiêu vong. Quân đội Phổ, ở Jena cũng đã hành động như một đẳng cấp có tổ chức, thế mà đáng lẽ giữ được vị trí của mình thì trái lại đã buộc phải bỏ chạy và sau đó thậm chí còn phải đầu hàng từng bộ phận một. Chúng ta càng không thể thoả mãn với lời quả quyết rằng một khi có cái loại kinh tế thống trị đó, thì một mức tiền lời nào đó của tư bản là mọi điều cần thiết; vì vấn đề chính là phải chứng minh tại sao lại như thế. Chúng ta cũng chẳng nhích lại gần mục đích thêm một chút nào, khi ông Đuy-rinh cho chúng ta biết :

" Sự thống trị của tư bản đã lớn lên gắn liền với sự thống trị ruộng đất. Một bộ phận những người nông nô lao động nông nghiệp đã biến thành công nhân thủ công trong các thành phố, và cuối cùng thành vật liệu trong công xưởng. Sau địa tô, tiền lời của tư bản đã phát triển thành một hình thức thứ hai của tô sở hữu. "

Ngay cả khi chúng ta bỏ qua sự sai lầm của lời khẳng định đó về mặt lịch sử, thì nó bao giờ cũng vẫn là một lời khẳng định suông và chỉ giới hạn trong việc lặp lại cái điều chính ra phải được giải thích và chứng minh. Do đó chúng ta không thể đi đến một kết luật nào khác hơn là ông Đuy-rinh không có khả năng trả lời câu hỏi của chính ông ta: Những nhà kinh doanh cạnh tranh với nhau làm thế nào có thể thực hiện được lâu dài sản phẩm của lao dộng cao hơn chi phí sản xuất tự nhiên, nói một cách khác, ông Đuy-rinh không thể giải thích được sự phát sinh của lợi nhuận. ông ta không còn cách gì khác hơn là chỉ phán rằng: tiền lời của tư bản là sản phẩm của bạo lực, điều này cố nhiên hoàn toàn phù hợp với điều 2 của bản hiến pháp xã hội của Đuy-rinh : Bạo lực thì phân phối. Dĩ nhiên nói như thế thì rất hay, nhưng bây giờ lại "nẩy ra vấn đề" là : Bạo lực phân phối cái gì ? Vì rằng phải có một cái gì để mà phân phối chứ, nếu không thì ngay cả một bạo lực mạnh mẽ nhất, dù có mong muốn đến đâu chăn nữa, cũng chẳng phân phối được cái gì. Tiền lời mà những nhà kinh doanh cạnh tranh với nhau bỏ túi là một cái gì rõ ràng và đúng đắn. Bạo lực thể chiếm lấy nó, nhưng không thể sản xuất ra nó được. Và nếu như ông Đuy-rinh cứ khăng khăng từ chối không giải thích cho chúng ta biết bạo lực chiếm được lợi nhuận doanh nghiệp bằng cách nào, thì đối với câu hỏi : Bạo lực lấy lợi nhuận đó từ đâu ra, ông ta chỉ trả lời cho chúng ta bằng một sự im lặng của nhà mồ. Ở nơi nào chẳng có gì cả, thì vua, cũng như mọi bạo lực khác, đều mất hết quyền của mình. Từ chỗ không có gì, thì sẽ không nẩy ra cái gì cả, cụ thể là không nẩy sinh ra lợi nhuận. Nếu quyền sở hữu về tư bản không có một ý nghĩa thực tiễn và không thể thực hiện được chừng nào mà nó không đồng thời bao hàm bạo lực gián tiếp đối với nhân liệu, thì một lần nữa lại lại nẩy sinh câu hỏi : Một là, làm thế nào mà của cải cấu thành tư bản lại có được bạo lực đó, một vấn đề hoàn toàn không thể giải quyết được bằng một vài lời khẳng định có tính chất lịch sử đã trích dẫn trên kia; hai là, bằng cách nào mà bạo lực đó biến thành việc làm tăng giá trị của tư bản, thành lợi nhuận, và ba là, bạo lực lấy lợi nhuận đó ở đâu.

Dù chúng ta có đề cập đến khoa kinh tế của ông Đuy-rinh từ phái nào chăng nữa thì chúng ta cũng không tiến thêm một bước nào đó không thích, đối với lợi nhuận, địa tô tiền công chết đói, việc nô dịch công nhân, khoa kinh tế đó chỉ có một tiếng duy nhất để giải thích : bạo lực, và luôn luôn là bạo lực, và sự "phẫn nỗ mạnh mẽ hơn" của ông Đuy-rinh cũng lại biến thành sự phẫn nộ đối với bạo lực. Chúng ta đã thấy rằng : một là, việc viện đến đến bạo lực như thế là một sự lẩn tránh thảm hại, là một cách gạt vấn đề từ lĩnh vực kinh tế sang lĩnh vực chính trị, nó không có thể giải thích một sự kiện kinh tế nào cả; và hai là ông ta vẫn bỏ lửng không giải thích sự nẩy sinh của bản thân bạo lực, và làm như thế nào là rất khôn ngoan, bởi vì nếu không thì ông ta buộc phải đi đến kết luận nói rằng tất cả mọi quyền lực xã hội và tất cả mọi bạo lực chính trị đều bắt nguồn từ những tiền đề kinh tế, từ phương thức sản xuất và trao đổi của mỗi một xã hội nhất định trong lịch sử .

Tuy nhiên chúng ta hãy cố moi thâm ở "nhà sáng lập sâu sắc hơn" và khắc nghiệt đó của khoa kinh tế, một vài điều giải tích nữa về lợi nhuận chăng. Có lẽ chúng ta đạt được điều đó nếu chúng ta lấy đoạn trình bày của ông ta về tiền công .

Trong đoạn ấy, ở trang 158, có nói :

" Tiền công là tiền thuê để duy trì sức lao động, và trước hết nó chỉ được kể đến với tư cách là cơ sở của địa tô và tiền lời của tư bản. Muốn hiểu thật rõ ràng những quan hệ đang tồn tại ở đây, thì phải hình dung địa tô và sau đó cả tiền lời của tư bản nữa, thoạt tiên là về mặt lịch sử, không có tiền công, tức là trên cơ sở chế độ nô lệ hay chế độ nông nô ... thuê - thì điều đó cũng chỉ quyết định những sự khác nhau trong cách thức tính những chi phísản xuất mà thôi. Trong tất cả những trường hợp đó, sản phẩm ròng do việc sử dụng sức lao động tạo ra đều cấu thành thu nhập của người chủ...Như vậy là người ta thấy rằng ... cụ thể là sự dõi lập chủ yếu, do đó mà người ta thấy có ở một bên là một loại tờ sở hữu nào đó, và bên kia, là lao động làm thuê không có sở hữu, người ta không thể chỉ tìm sự đồi lập chủ yếu đó ở riêng trong một về của mối quan hệ đó, mà bao giờ cũng phải tìm ở cả hai vế cùng một lúc."

Nhưng tô sở hữu, như chúng ta đã được biết ở trang 188, là một danh từ chung cho địa tô và tiền lời của tư bản. Tiếp nữa, ở trang 174 người ta còn đọc thấy:

" Tính chất của tiền lời của tư bản là sự chiếm hữu phần chủ yếu nhất trong sản phẩm của sức lao động. Không thể quan niệm được tiền lời của tư bản mà không có yếu tố tương quan với nó là lao động bị nô dịch trực tiếp hay gián tiếp dưới hình thức này hay hình thức khác ."

Và ở trang 183:

Tiền công " Trong mọi trường hợp chẳng qua chỉ là tiền thuê, nhờ nó mà nói chung việc nuôi sống và khả năng sinh con đẻ cái của công nhân phải được đảm bảo."

Và cuối cùng,ở trang 195:

Cái thuộc về phần của tô sở hữu phải là cái mà tiền công mất đi, và ngược lại, cái thuộc về lao động lấy từ khả năng sản xuất chung (!) phải được rút ra từ những thu nhập của quyền sở hữu".

ông Đuy-rinh đưa chúng ta đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Trong lý luận về giá trị và trong những chương tiếp theo cho đến học thuyết về cạnh tranh và kể cả học thuyết này nữa, nghĩa là từ trang 1 đến trang 155, giá cả của hàng hoá hay giá trị đã chia ra thành, một là, những chi phí sản xuất tự nhiên hay giá trị sản xuất, nghĩa là những chi phí về nguyên liệu, tư liệu lao động và tiền công, và hai là, khoản phụ gia hay giá trị phân phối, tức là khoản thuế cưỡng ép được với cây kiếm trong tay thuộc về giai cấp bọn độc quyền, một khoản phụ gia, như chúng ta đã biết, thực ra không thể thay đổi chút nào sự phân phối của cải cả, bởi vì cái mà ông ta lấy được bằng tay này thì lại phải buông ra bằng tay kia, và ngoài ra, trong chừng mực mà ông Đuy-rinh cho chúng ta biết về nguồn gốc và nội dung của nó, thì nó không sinh ra từ cái gì cả, và vì vậy cũng không gồm cái gì cả. Trong hai chương tiếp theo bàn về các loại thu nhập, tức là từ trang 156, đến trang 217, thì lại không hề nói đến khoản phụ gia đó nữa. Thay vào đó, giá trị của mọi sản phẩm lao động nào, tức là của mọi hàng hoá , đều chia ra làm hai phần sau đây: một là, những chi phí sản xuất, trong đó có cả tiền công đã trả và hai là, "Sản phẩm ròng có được do sử dụng sức lao động", sản phẩm ròng này hình thành thu nhập của người chủ. Và cái sản phẩm ròng đó có một bộ mặt hoàn toàn quen thuộc, mà không một sự xăm mình hay một nghệ thuật hoá trang nào có thể che đậy được. "Muốn hiểu thật rõ ràng những quan hệ đang tồn tại ở đây", bạn đọc chỉ cần hình dung rằng những đoạn văn vừa dẫn ra của ông Đuy-rinh được in đối diện với những đoạn của Mác đã dẫn trên kia về lao động thặng dư, sản phẩm thặng dư giá trị thặng dư, và bạn đọc sẽ thấy rằng, ở đây ông Đuy-rinh đã trực tiếp sao chép từ bộ "Tư bản" theo cách riêng của ông ta.

ông Đuy-rinh thừa nhận rằng lao động thặng dư, dưới bất kỳ hình thức nào, dù đó là hình thức chế độ nô lệ, chế độ nông nô hay chế độ lao động làm thuê, đều là nguồn gốc của các thu nhập của tất cả các giai cấp thống trị từ trước đến nay: điều này lấy trong đoạn văn đã trích dẫn nhiều lần, của bộ "Tư bản", trang 277: tư bản không phát minh ra lao động thặng dư v.v... Và cái "sản phẩm ròng" hình thành "thu nhập của người chủ", thì thử hỏi đó là cái gì khác ngoài cái số dư của sản phẩm của lao động so với tiền công, tiền công này, ngay cả ở ông Đuy-rinh nữa, mặc dù nó được ngụy trang một cách hoàn toàn vô ích thành tiền mướn, nói chung cũng phỉ bảo đảm việc nuôi sống và khả năng sinh con để cái của người công nhân ? Làm thế nào lại có thể diễn ra "Sự chiếm hữu phần chủ yếu nhất trong sản phẩm của sức lao động", nếu không phải bằng cách là tư bản, như Mác đã nói, đã bòn rút của công nhân nhiều lao động hơn là số lao động cần thiết để tái sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt mà người công nhân đã tiêu dùng, nghĩ là bằng cách nhà tư bản bắt công nhân phải lao động lâu hơn số thời gian cần thiết để bù lại giá trị của tiền công trả cho người công nhân ? Vậy, sự kéo dài ngày lao động quá số thời gian cần thiết để tái sản xuất ra các tư liệu sinh hoạt của người công nhân, tức là lao động thặng dư của Mác chính cái đó, chứ không phải cái gì khác, đang nấp sau "Việc sử dụng sức lao động" của ông Đuy-rinh. Và cái "sản phẩm ròng của người chủ" của ông ta liệu có thể được trình bày dưới một hình thức nào khác ngoài cái hình thức sản phẩm thặng dư và giá trị thặng dư của Mác, hay không ? Và tô sở hữu của ông Đuy-rinh khác với giá trị thặng dư của Mác ở chỗ nào, nếu không phải là ở các quan niệm không đúng của ông ta về tô sở hữu ? Vả lại, ông Đuy-rinh đã mượn cái tên "Tô sở hữu" ở Rodertus là người trước kia đã gọi cả địa tô và tô của tư bản hay tiền lời của tư bản bằng một thuật ngữ chung là tô, thành thử ông Đuy-rinh chỉ có việc thêm vào đó chữ "sở hữu" thôi. Và để cho không còn ai nghi ngờ gì về việc cóp nhặt, ông Đuy-rinh tóm tắt những quy luật do Mác trình bày ở chương 15 của bộ "Tư bản" ( ở trang 539 và những trang tiếp theo ) về những sự thay đổi trong đại lượng của giá cả sức lao động và của giá trị thặng dư[70], và ông ta tóm tắt theo cách thức riêng của ông ta, thành thử cái thuộc về tô sở hữu tất phải là cái mà tiền công mặt, và ngược lại, do đó mà biến những quy luật cụ thể, có nội dung phong phú của Mác thành một sự lặp lại rỗng thuếch, vì tất nhiên là trong một đại lượng nhất định chia thành hai phần, thì phần này không thể lớn lên mà phần kia lại không nhỏ đi. Và bằng cách đó, ông Đuy-rinh đã chiếm đoạt những ý kiến của Mác dưới một hình thức khiến cho "tính khoa học tột đỉnh và hết sức chặt chẽ theo ý nghĩa những khoa học chính xác" như người ta thật sự thấy rõ trong bản tình bày của Mác, phải hoàn toàn biến mất.

Vì vậy chúng ta không thể không nghĩ rằng những sự rùm beng ỉnh ỏi mà ông Đuy-rinh đã dấy lên trong cuốn "Lịch sử phê phán" về vấn đề bộ "Tư bản", và đặc biệt là đám bụi mù mà ông ta đã tung lên với cái vấn đề nổi tiếng nảy sinh khi xem xét giá trị thặng dư, vấn đề mà lẽ ra ông ta đừng đặt ra thì tốt hơn, bởi vì chính ông ta cũng không thể giải đáp được, chúng ta không thể không nghĩ rằng tất cả những cái đó chỉ là những mưu kế quân sự, những mánh khoé khôn khéo để che đậy việc cóp nhặt thô bạo của Mác, mà ông ta đã phạm phải trong tập "Giáo trình" của ông ta. Thật vậy, ông Đuy-rinh có tất cả các lý do để phòng ngừa trước bạn đọc của ông ta là đừng nên tìm hiểu "cái mớ bòng bong" mà ông Mác gọi là bộ "Tư bản", phòng ngừa cho họ khỏi rơi vào những sản phẩm lai căng của một câu chuyện hoang đường về lịch sử và về lô-gích, những quan niệm và những lời né tránh rối rắm và mơ hồ của Hegel, v.v... Thần vệ nữ mà anh chàng Eckart trung thành đó đã đề phòng cho thanh niên Đức, thì chàng ta đã lét lút đưa ra khỏi trang trại của Mác và đem đặt vào một chỗ chắc chắn để dùng riêng. Chúng ta hãy chúc mừng ông ta về cái sản hẩm ròng thu được nhờ sử dụng sức lao động của Mác, và về cái ánh sáng độc đáo mà việc xâm chiếm cái giá trị thặng dư của Mác dưới cái tên gọi tô sở hữu, đã đem rọi lên những động cơ của sự khẳng định ngoan cố, vì ông đã nhắc đi nhắc lại trong hai lần xuất bản, và sai lầm của ông ta nói rằng, Mác chỉ coi giá trị thặng dư là lợi nhuận hay là tiền lời của tư bản thôi.

Và như vậy là ta phải mô tả những thành tựu của ông Đuy-rinh bằng chính ngay những lời nói của ông ta như sau:

"Theo ý kiến của ông "Đuy-rinh" tiền công chỉ là tiền trả cho số thời gian lao động trong đó người công nhân thật sự làm việc để có thể duy trì cuộc sống của mình. Muốn có thế thì một số ít giờ thôi cũng đủ, tất cả phần còn lại của ngày lao động thường bị kéo dài, tạo ra một số dư chứa đựng cái mà tác giả của chúng ta gọi là "...tô sở hữu" Không nói đến thời gian lao động đã được chứa đựng trong những tư liệu lao động và trong những nguyên liệu tương ứng ở mỗi giai đoạn sản xuất, cái phần dư đó của ngày lao động là phần của nhà kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Thep quan điểm ấy thì việc kéo dài ngày lao động là một lợi nhuận ròng có tính chất bóc lột làm lợi cho nhà tư bản. Sự căm ghét độc địa mà ông "... Đuy-rinh " để lộ ra khi dùng cái lối mô tả việc bóc lột đó cũng rất dễ hiểu "..

Nhưng điều khó hiểu hơn là làm thế nào mà ông ta lại trở lại được với "sự phẫn nộ kịch liệt hơn" của ông ta?

[Chương trước]   [Mục lục]   [Chương tiếp theo]